Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

Chuyên gia nước ngoài nói gì về đô thị hóa ở Việt Nam?


Các cuộc gặp gỡ cùng những học giả nghiên cứu về đô thị ở Ðại học British Columbia, Canada (nơi đặt trụ sở của Trung tâm Ðịnh cư con người thế giới) rồi Bách khoa Torino (Italia), Ðại học Berkeley (Mỹ) đã làm tôi khẳng định được rằng công cuộc đô thị hóa không thể chỉ giải quyết giữa giới quy hoạch, kiến trúc với nhau mà cần sự tiếp cận đa ngành.

Xây dựng mới hoặc cải tạo đô thị nhất thiết phải có sự tiếp tay tích cực của các nhà kinh tế, văn hóa, xã hội. Tại các cuộc gặp gỡ đó, tôi học hỏi được nhiều từ các nhà địa lý nhân văn, môi trường, xã hội học đô thị, nhân học, hoạt động xã hội và văn hóa cộng đồng, quản lý đô thị...  hơn là từ đồng nghiệp trong nghề của mình.

Thị trưởng thế giới và các nhà quy hoạch Châu Âu

Lần đầu tiên tôi có ấn tượng sâu sắc về cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề đô thị là ở cuộc họp các thị trưởng khắp thế giới tại Montréal, Canada vào đầu những năm 90 thế kỷ trước. Bản thân họ là những nhà chính trị mà lại tiếp cận được các vấn đề đô thị giống như những quy hoạch gia và môi trường học sành sỏi. Tôi có cảm tưởng họ đích thực là các kiến trúc sư của thành phố, không giống với vai trò kiến trúc sư trưởng hữu danh vô thực ở nước ta những năm nào!  Tiếp xúc với các nhà quy hoạch châu Âu những năm gần đây, tôi mới biết rằng những lý luận về đô thị học của các nhà kiến trúc hiện đại sừng sỏ thế giới như Le Corbusier, Meier, Gropius các năm 30 của thế kỷ trước qua Hiến chương Athens 1933 về “đô thị công nghiệp” ra đời ở châu Âu nay đã lỗi thời, không còn phù hợp cho phát triển đô thị bước vào thời đại thông tin và xã hội tri thức. Ðỉnh cao của đô thị công nghiệp phương Tây phải chăng là sự hình thành “mạng lưới đô thị toàn cầu” theo mô hình Mỹ đang lan tràn khắp châu á ngày nay.

Phản ứng lại những sai lầm đô thị hóa kiểu đó, vào các năm 1990, Hiệp hội các quy hoạch gia đô thị Cộng đồng Châu Âu soạn thảo Hiến chương Athens Mới 1998 nhắm chuẩn bị cho công tác quy hoạch đô thị khi loài người bước vào thế kỷ XXI, lấy con người là đối tượng trung tâm công tác quy hoạch đô thị, với các điều khoản mang tính nhân văn và chú trọng đến các vấn đề môi trường, phát triển hài hòa và bền vững.

Hiện nay đang xuất hiện phong trào “Phục hưng châu á” với nhiều tầm nhìn mới về phát triển, trong đó có tầm nhìn về kiến trúc và quy hoạch đô thị. Các nhà kiến trúc lớn châu á như William Lim, Ken Yeang, Tay Kheng Soon, Charles Corea... chủ trương phát triển kiến trúc mang tính “hậu hiện đại - bản địa”, nhằm phản ứng lại trào lưu quy hoạch phương Tây đi đến đâu là chủ trương phá hủy các trung tâm đô thị truyền thống, áp đặt phong cách quốc tế với các khối nhà cao tầng vô hồn, xa lộ xuyên trung tâm đô thị, tạo dựng các khu đô thị mới lấn chiếm vùng ven thị với lối ở kiểu “suburb” ngoại ô Mỹ, siêu thị, sân golf.

Các nhà nghiên cứu đô thị trẻ phương Tây ở Việt Nam 

Không phải ngẫu nhiên mà năm nay vấn đề đô thị ở nước ta trở thành đề tài nóng bỏng tại các cuộc gặp gỡ học giả trong và ngoài nước. Năm nay, các cuộc thi quốc tế hiến kế về kiến trúc, đô thị diễn ra sôi nổi, từ Hà Nội đến TP.HCM. Các dự án khu đô thị mới cũng xuất hiện khắp nơi. Nhưng thực tế đô thị ta, giao thông vẫn tắt nghẽn, nước ngập lênh láng, cơn sốt nhà đất rộ lên rồi tắt ngấm, nông dân tiếp tục khiếu kiện do mất đất xây các khu công nghiệp, sân golf. Trong cư dân đô thị, người có thu nhập thấp, công nhân thời vụ vẫn sinh sống trong vùng ven thị nhếch nhác...

Phải chăng vẫn còn nguyên đó những điều bất ổn trong vấn đề đô thị và đô thị hóa vào giai đoạn phát triển và hội nhập ở nước ta.

Tại hội thảo Việt Nam học ở Hà Nội, tôi thực sự ngạc nhiên khi gặp các nhà nghiên cứu trẻ đến từ phương Tây. Họ đều nói sõi tiếng Việt và đã có nhiều năm học tập, nghiên cứu ở Hà Nội. Các vấn đề họ tìm hiểu không to tát như lớp học giả đàn anh, mà về các vấn đề nhỏ, rất đời thường như tìm hiểu “khu vực phi chính quy” (informal sector) về các tầng lớp cư dân đông đảo đô thị kinh doanh nhỏ, sự phát triển của các thành phố nhỏ ở nước ta.

Timothy Gorman (Mỹ) bàn về “nền kinh tế hằng ngày” của những người mua gánh bán bưng, xe ba bánh, người nhập cư nông thôn lên thành phố kiếm sống. Chính quyền đô thị phải có giải pháp thỏa đáng giải quyết công ăn việc làm và nơi ở, sinh hoạt cho thành phần cư dân thu nhập thấp, hoặc công tác thời vụ này. Anh đưa ra một số giải pháp hợp tình hợp lý về bố trí tập trung chỗ buôn bán cho người bán hàng rong, sắp xếp chỗ cho người buôn bán nhỏ. Các giải pháp đề ra có lẽ còn tốt hơn các biện pháp hành chính mà các nhà quản lý đô thị nước ta vội vã đem ra áp dụng vừa qua.

Sandra Kurten, Rudiger Korff thuộc Viện nghiên cứu Ðông Nam á, Ðại học Passau (Ðức) đề cập vấn đề thay đổi không gian công cộng ở Hà Nội, nhằm tạo sức sống năng động hơn cho các quảng trường, công viên và cả hè phố, làng hoa truyền thống kiểu xã hội thị dân mà Việt Nam đang hướng tới. Tim Kaiser cũng từ trường đại học trên thì rút tỉa kinh nghiệm từ các đô thị nhỏ ở phương Tây để hội nhập các thành phố nhỏ vào hệ thống các thành phố Việt Nam, tạo sự đóng góp hài hòa chung cho khu vực cũng như vai trò của chúng trong các hình mẫu di dân.

Những đổi thay ở Hà Nội và Ðà Nẵng

Thật tình cờ, tôi gặp hai chuyên gia đô thị tầm cỡ từ nhiều năm qua đã kiên nhẫn theo dõi tiến trình phát triển ở Hà Nội và Ðà Nẵng. Nữ KTS trẻ Lisa Drummond nói rất giỏi tiếng Việt đến từ Khoa Ðô thị học của đại học York (Toronto, Canada) cho rằng cơ cấu không gian đô thị Việt Nam đã thay đổi đáng kể sau 20 năm đổi mới. Hà Nội chẳng những phát triển theo chiều ngang, lan tỏa ra vùng ven mà cả về chiều cao với khách sạn, nhà văn phòng và chung cư cao tầng. Sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu cùng các thói quen mới về tiêu thụ và sinh hoạt góp phần làm thay đổi cảnh quan đô thị. Các điều này có lẽ đã được tiên liệu trước nhưng với tốc độ phát triển quá nhanh như hiện nay thì cũng đáng báo động.

GS Christian Taillard là nhà nghiên cứu đô thị thuộc Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học Pháp (CNRS) lại tập trung vào thành phố Ðà Nẵng trong công trình kéo dài nhiều năm. Từ một thành phố quy hoạch xây dựng theo tuyến tĩnh về giao thông (sông Hàn và sân bay) từ thời Pháp thuộc cho đến chiến tranh chống Mỹ, bước vào thời kỳ phát triển sau chiến tranh, Ðà Nẵng đã phát triển theo hướng một siêu đô thị - đa trung tâm. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa Ðà Nẵng chỉ mới diễn ra ở các trục giao thông chính và các khu đô thị, khu công nghiệp mới, chứ chưa tác động đến cơ cấu thôn làng ở các lõm giữa. Cho nên cảnh quan đô thị Ðà Nẵng ngày nay là một sự đan xen hai yếu tố đô thị và nông thôn. Ðây có lẽ là hình mẫu chung cho nhiều thành phố đang phát triển nhanh ở nước ta.

Xuất hiện các “Vùng đại đô thị”

Gây chú ý nhất tại các cuộc hội thảo quốc tế cuối năm qua là các chuyên gia hàng đầu về đô thị đến từ Bắc Mỹ. GS T.G. Mc Gee trình bày rất rõ nét về sự xuất hiện và vai trò tích cực của các “Vùng Ðại đô thị” (Mega-Urban Regions, MURS) trong phát triển kinh tế ở châu Á. Ông là một chuyên gia địa lý nhân văn hàng đầu của Canada từng có gần nửa thế kỷ nghiên cứu và kinh nghiệm về các vấn đề đô thị, đặc biệt hiểu biết khá sâu về phát triển đô thị châu Á. Gần đây ông đặc biệt quan tâm đến diễn tiến đô thị hóa nhanh chóng ở nước ta. Ông cảnh báo chúng ta về những hậu quả không mấy khích lệ đang diễn tiến ra tại các thành phố xây dựng dọc theo bờ biển, về khoảng cách giàu-nghèo, bất bình đẳng xã hội và phá hủy môi trường.

GS Michael Leaf là chuyên gia quy hoạch định cư đến từ đại học British Columbia, Canada.  Ông tập trung nghiên cứu các vùng ven thị Ðông Nam Á và TP.HCM. Ðối với ông, đây là vùng đệm giữa đô thị cũ và vùng nông thôn chung quanh và là nơi đang diễn ra sự thể nghiệm các khu đô thị mới với các khu công nghiệp, nhà ở, vui chơi giải trí. Hiện tượng đô thị hóa vùng ven thị diễn ra ở nước ta càng phức tạp hơn khi xuất hiện việc chiếm dụng đất canh tác nông nghiệp, đầu cơ đất đai và nạn tham nhũng. Ông nghĩ rằng chính quyền phải xác định lại phương cách quản lý mới và tái cấu trúc lại lãnh thổ thì mới mong phát triển hài hòa cho công cuộc đô thị hóa.

Hiện tượng “Ðô thị toàn cầu”

Tôi thích thú nhất với báo cáo của GS Mike Douglass của Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa và Khoa Quy hoạch đô thị và Quy hoạch Vùng thuộc Ðại học Hawaii, Hoa Kỳ. Với kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu tiến trình đô thị hóa ở châu á, ông lên tiếng báo động về nguy cơ các công ty bất động sản lớn đang chuyển đất đai nông nghiệp thành các khu đô thị mới với cư xá khép kín, với  nhà ở cao cấp cùng các dịch vụ như siêu thị, công viên, sân golf, khu vui chơi giải trí riêng biệt dành cho người có thu nhập cao. Ðây là hình ảnh của “đô thị toàn cầu” rất xa lạ với khung cảnh đa phần còn nghèo khó vùng Ðông Nam Á.

Cảm tưởng chung của tôi là các chuyên gia quốc tế hàng đầu phương Tây này vẫn nhìn vấn đề đô thị và đô thị hóa ở nước ta theo lối quy hoạch đô thị công nghiệp phương Tây thế kỷ XX vừa qua. Và như vậy thì họ đã chưa đưa ra được những góp ý tích cực hơn để giúp ta phát triển đô thị theo hướng hậu công nghiệp mang tính nhân văn và bền vững của thế kỷ XXI.

Ví như GS Mc Gee mới chỉ đưa ra các khuyến cáo như phải tăng cường phúc lợi xã hội, đối xử bình đẳng đối với nông thôn. Trả lời câu hỏi đô thị Việt Nam có thể nào thoát ra khỏi “Mạng lưới đô thị toàn cầu” bị phương Tây khống chế, GS Douglass cho rằng nếu những nước châu á mong muốn hội nhập và phát triển nhanh chóng theo hướng kinh tế thị trường thì không còn mô hình nào khác. Có lẽ ông chưa tiện nói ra, nhưng tôi nhận thấy ông muốn ngầm cảnh báo các chính quyền châu á rằng, nếu tiếp tục phát triển đô thị kiểu đó, sẽ xuất hiện hố sâu phân cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội, cùng với sự xuất hiện “chủ nghĩa tiêu thụ” và “xã hội mạng lưới” do phương Tây khống chế ngày nay. Riêng tôi còn nghĩ rằng phát triển đô thị kiểu này ta sẽ sớm rơi vào “xã hội mạng lưới” nặng về chủ nghĩa tiêu thụ và gạt sang bên lề xã hội người nghèo đô thị. Nếu quan tâm đến phát triển bền vững hơn, chúng ta vẫn có thể tìm ra được các giải pháp căn cơ cho phát triển đô thị dựa trên các tiêu chí công bằng về không gian, xã hội và môi trường cho mọi người.

KTS. Nguyễn Hữu Thái

Không gian công cộng và "Thành phố của tập đoàn"


Không dễ tìm định nghĩa chính thức về không gian công cộng. Theo nghĩa rộng nhất, Bộ Xây dựng(1) coi không gian công cộng là mọi không gian do nhà nước quản lý, bao gồm: đường phố, vỉa hè, bờ sông, bờ đê, hay thiết bị công cộng như bãi đổ rác, công trình công cộng, tượng đài. Nhưng bên cạnh đó, một số diện tích chung trong một số khu vực tư nhân, như nhà chung cư, khu ở biệt lập cũng được coi như một dạng không gian công cộng. Do đó, trong thực tế, nhiều loại không gian khác nhau ở Việt Nam được nhìn nhận như là không gian công cộng(2), bao gồm: các không gian “bán công cộng” như khoảng sân trước đình chùa, quán cà phê, hay tượng đài; các không gian công cộng chính thức như công viên công cộng; hay các diện tích chung trong các công trình tư nhân như nhà chung cư hay trung tâm mua sắm dịch vụ.

(ảnh minh họa)
Tại các khu vực đông dân cư trong thành phố, nơi người dân sống nhiều thế hệ trong các căn nhà chật hẹp, người ta càng cần không gian công cộng hơn cả. Với họ, không gian công cộng không chỉ giúp đi lại, mà còn là những không gian hiếm hoi để giao tiếp xã hội, chơi, nghỉ ngơi, và tạo ra thu nhập kinh tế. Đồng thời, đó cũng lại là không gian mà các thành viên phải cùng nhau chia sẻ, điều chỉnh nhu cầu và hoạt động của mình, cho tương thích với nhau. Sự giao tiếp xã hội, thương lượng và điều chỉnh các hoạt động cá nhân(3) tạo ra cuộc sống sinh động trong không gian công cộng: với các hoạt động đa dạng, tự điều chỉnh, thay đổi liên tục trong ngày. Không gian công cộng mở, sôi động, tự quản, đáp ứng người sử dụng đa dạng được coi là một trong nhưng biểu hiện lành mạnh của đời sống đô thị.
Nhưng không gian công cộng cũng là không gian xung đột giữa một bên là các cơ quan nhà nước và bên kia là các biểu hiện đời sống sinh hoạt kinh tế xã hội hàng ngày của người dân. Vấn đề nằm ở chỗ không gian công cộng là không gian do nhà nước chính thức quản lý, thông qua bộ máy quản lý(4), các quy định, chính sách, và quyết định về những vấn đề như: ai được phép sử dụng, ai cho phép ai, với phí tổn thế nào. Mục đích của chính quyền là nhằm buộc người dân Hà Nội, nhất là người mới nhập cư, sống “cuộc sống văn minh”(5) – định nghĩa theo các khía cạnh kỷ luật xã hội, vệ sinh và thẩm mỹ. Sự khác biệt giữa thực tế hàng ngày và quan điểm của các cơ quan nhà nước khiến không gian công cộng trở thành nơi diễn ra và giải quyết các xung đột, trong đó mỗi phía (người dân và cơ quan nhà nước) phát triển riêng cho mình các thủ thuật để thuận tiện trong việc kiểm soát và chiếm lĩnh không gian công cộng.
Không cái nào trong số các xung đột về không gian công cộng này là mới(6) hay mang tính đặc trưng Việt Nam. Đã có bằng chứng cho thấy các xung đột tương tự đã từng diễn ra thời thuộc Pháp, trong thời gian đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong thời kinh tế bao cấp sau năm 1975, và tiếp diễn cho đến thời nay, thời kỳ di dân và đô thị hóa mạnh mẽ sau Đổi Mới. Có lẽ chỉ sự biến đổi về hình thể của thành phố là điều mới mẻ.

Phần còn lại của một ngôi nhà dành cho khách du lịch tại làng Lai Xá nằm ở phía tây Hà Nội. Ngôi nhà nguyên gốc thường có khoảng trống ở phía trước.
Tại Hà Nội, giống như nhiều nơi khác của Việt Nam, ranh giới giữa không gian công cộng và tư nhân rất mờ nhạt. Kết quả là đời sống xã hội, văn hóa, thậm chí đời sống làm ăn của người dân Hà Nội tràn cả ra ngoài những không gian công cộng chính thức, như vỉa hè, đường phố, công viên và tượng đài, theo nhiều cách khác nhau – và do đó tạo ra một đô thị mang sắc thái công cộng rất đậm nét. Khách du lịch đến Hà Nội, trong khi phải thăm viếng nhiều thắng cảnh khách nhau, thường hay bị lôi cuốn bởi cuộc sống sinh động chảy xung quanh họ, từ luồng xe cộ náo nhiệt, đến hoạt động dày đặc khu phố cổ, cũng như các trình tự tập luyện hàng ngày của người dân tại các công viên. Dù có luật lệ, không dễ để thấy luật lệ được cả nhà nước hay người dân chấp hành. Nhìn từ xa, tất cả khá “hỗn độn” và “lộn xộn”.
Hỗn độn và lộn xộn không phải là điều mà cả nhà nước lẫn nhà phát triển mong muốn. Khi các dự án do nhà nước hay tư nhân làm chủ ngày càng có quy mô lớn hơn trong ba thập kỷ qua, xu hướng phát triển trên quy mô toàn cầu càng ngày càng hướng tới sự kiểm soát chặt chẽ hơn tới các ranh giới giữa một bên là không gian bên trong dự án và bên kia là không gian bên ngoài của không gian công cộng (như đường phố, vỉa hè). Kết quả là các không gian đô thị mới càng ngày càng mang tính hướng nội, với điều hòa không khí, cảnh quan hoàn hảo, camera giám sát mọi nơi, người gác cổng và những quy định để kiểm soát khách cũng như người sử dụng. Những không gian đó có thể trở thành như những pháo đài(7) nhằm bảo vệ các không gian bên trong, chống lại các không gian bên ngoài của đường xá hay vỉa hè.
Chúng tôi gọi sự hình thành cảnh quan kiểu pháo đài như vậy là “thành phố tập đoàn” (corporate city).
Phần thành phố của các tập đoàn tại Hà Nội bao gồm trung tâm mua sắm, cao ốc văn phòng, khách sạn quốc tế, cao ốc chung cư và khu ở biệt lập. Càng ngày, sự kết hợp các dạng công trình đó càng xuất hiện trong các dự án mang tính tổng thể, nhằm tái phát triển cả khu phố hay phát triển mới các khu đất nông nghiệp lớn. Việc xây dựng các tổ hợp dự án đó thường xuất phát từ việc chuyển đổi chức năng đất nông nghiệp giá rẻ ở ngoại thành(8) và đất cơ quan nhà nước, thậm chí cả đất công cộng (như chợ và công viên) tại các khu đô thị cũ.
Việc chuyển đổi đất sở hữu nhà nước thành đất tư – bao gồm đất do cơ quan nhà nước quản lý, chợ, công viên, thậm chí vỉa hè(9) – được thực hiện thông qua các chính sách, thường được gọi là “xã hội hóa”. Trong bối cảnh Việt Nam, xã hội hóa là khái niệm nhằm chỉ sự chia sẻ chi phí đầu tư giữa nhà nước, khối tư nhân, các tổ chức và nhân dân nhằm tiến hành các hoạt động phát triển hay cung cấp các dịch vụ công. Trong thực tế xã hội hóa thường mang hình thức dịch vụ trả tiền, cụ thể như trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Nhưng xã hội hóa còn có nhiều hình thức khác. Dùng thu nhập từ phí cầu đường trả cho đơn vị quản lý và tu bổ cầu đường, trong khi cầu đường được xây dựng bằng kinh phí nhà nước, cũng được coi là xã hội hóa. Khuyến khích phát triển tư nhân trên đất công bằng cách xây dựng đường tới các khu đất này cũng được coi là xã hội hóa. Khi dự án có quy mô nhỏ, chẳng hạn nhượng bộ cho tư nhân chỗ xây dựng công trình dịch vụ trong công viên, thì sự nhượng bộ đó không làm giảm đặc điểm công cộng cơ bản của không gian công cộng. Tuy nhiên, khi quy mô của dự án tăng lên, đặc điểm công cộng của các không gian đô thị bị suy giảm và bắt đầu mang các yếu tố của thành phố tập đoàn.
Xã hội hóa và tập đoàn hóa quá trình phát triển đô thị đang song hành với nhau để biến đổi Hà Nội. Vậy, không gian công cộng, cũng như động lực đời sống công cộng của Hà Nội, mai này sẽ ra sao?

Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012

VÌ SAO BỘ MẶT ĐÔ THỊ VIỆT NAM BỊ CHẮP VÁ?



Giáo sư Michael Leaf hiện giảng dạy tại trường Qui hoạch Cộng đồng và Vùng, đồng thời là Giám đốc Trung tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á tại Đại học British Colombia, Canada. Ông đã hơn 20 năm nghiên cứu về đô thị hóa và qui hoạch đô thị tại châu Á, trong đó có 4 nghiên cứu và một số tư vấn về quản lí đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Gặp ông nhân một chuyến công tác ngắn ngày tại TP HCM, nhà qui hoạch đô thị Nguyễn Đỗ Dũng đã có dịp trò chuyện với ông về một số vấn đề đô thị tại Việt Nam.
Nguyễn Đỗ Dũng

Giáo sư Michael Leaf trên đường phố Sài Gòn
Qui hoạch đô thị đang là vấn đề nóng hổi tại các thành phố lớn ở Việt Nam, nhất là sau trận lụt lịch sử tại Hà Nội, đợt ngập triều và sự xuất hiện của những “lô cốt” trên đường phố Sài Gòn – những con đường vốn đã thường xuyên kẹt xe từ trước đó. Vậy vai trò thực sự của qui hoạch ở đâu trong những vấn nạn này?
Khi bạn nhìn vào một thành phố lộn xộn và có nhiều vấn nạn, bạn có thể có hai cách lý giải: thành phố đó không được qui hoạch tốt, hoặc là qui hoạch thành phố không được thực thi một cách nghiêm chỉnh. Qui hoạch đô thị tại Việt Nam có vai trò tương đối mờ nhạt trong việc tạo dựng hình ảnh đô thị. Thực tế này có lẽ trước tiên là do hệ thống luật pháp giúp thực thi qui hoạch là tương đối yếu kém. Qui hoạch vẫn chỉ mang tính “đề xuất” và việc diễn giải từ qui hoạch và các qui định về qui hoạch ra thực tiễn còn rất tùy hứng và dẫn đến những kết quả rất khác nhau.
Một dẫn chứng là một dự án cao ốc mới được phê duyệt tại TP HCM mà tôi đọc trên báo. Dự án không phù hợp cả về kiến trúc và qui mô và sẽ tạo ra rất nhiều giao thông đối với khu vực trung tâm hiện hữu của thành phố nhưng vẫn được phê duyệt. Tôi e rằng dự án được phê duyệt không phải vì sự phù hợp với qui hoạch chung mà vì mối quan hệ chính trị hoặc kinh tế mà chủ dự án có được. Như vậy qui hoạch không có đủ quyền lực để giúp giải quyết những vấn nạn của đô thị.
Ông đã nhắc đến vấn đề thiết chế thực hiện qui hoạch lỏng lẻo tại Việt Nam. Còn từ góc độ chuyên môn: phương pháp và thực hành qui hoạch, liệu có vấn đề gì mà ông cho là nguyên nhân dẫn đến những vấn nạn đô thị kể trên?
Một vấn đề cốt lõi trong phương pháp qui hoạch là sự tồn tại ranh giới giữa qui hoạch xây dựng đô thị, khía cạnh phát triển về hạ tầng, kỹ thuật và kiến trúc của một thành phố, và kế hoạch hay còn gọi là qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội của thành phố đó. Vai trò của qui hoạch mới chỉ là thực hiện kế hoạch: xây dựng bao nhiêu căn nhà, mở bao nhiêu km đường, nối bao nhiêu cây cầu,… Về về măt tổ chức chính quyền, qui hoạch, thuộc lĩnh vực xây dựng, và kế hoạch, thuộc lĩnh vực kế hoạch – đầu tư, vẫn còn thuộc vào các cơ quan quản lí riêng biệt và dường như ít đối thoại với nhau. Tôi nghĩ rằng để giải quyết rất nhiều những vấn nạn trong đô thị Việt Nam hôm nay, qui hoạch phải xen kẽ các mục tiêu kinh tế xã hội vào trong các bản vẽ thay vì chỉ tập trung vào việc tạo dựng hình ảnh bề ngoài của đô thị. Và việc không am hiểu các khía cạnh kinh tế, xã hội trong quá trình qui hoạch xây dựng đô thị cũng làm hình ảnh thành phố bị biến dạng và chắp vá so với ý đồ thiết kế. Tại Canada cũng như nhiều quốc gia phát triển khác, các nhà qui hoạch (planner) là đảm đương cả hai vai trò: đề xuất chiến lược phát triển kinh tế và kế hoạch phát triển đô thị và hạ tầng.
Nhưng cùng với sự phân cấp quản lí qui hoạch về cấp quận và phường, các yếu tố kinh tế – xã hội trong nhận thức của địa phương thường mâu thuẫn với qui hoạch của toàn thành phố và dẫn đến quang cảnh chắp vá của đô thị hóa vùng ven như trong nghiên cứu của giáo sư đã phản ánh?
Đúng thế. Chính quyền thành phố đề xuất ra các bản qui hoạch tổng thể. Tuy nhiên việc thực hiện qui hoạch phụ thuộc rất nhiều vào sự đồng thuận và quyết tâm của chính quyền cấp quận/huyện và cả cấp phường/xã trong việc thực hiện bản qui hoạch chung đó cũng như quản lí đô thị.
Đặc điểm chung của đô thị hóa vùng ven tại TP HCM là sự chắp vá, nhất là do việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất vô nguyên tắc. Sự chắp vá này dẫn đến những tác hại về môi trường và xã hội. Sự chắp vá trong đô thị hóa cũng phản ánh phần nào sự chắp vá trong thực hiện và quản lí qui hoạch. Theo số liệu của Niên giám Thống kê TP HCM 2008 thì dân số thành phố năm 2007 là 6,7 triệu người. Tuy nhiên một con số ước lượng từ năm 1998 thì dân số lúc đó đã là 7,5 triệu trong khi số liệu chính thức tại cùng thời điểm là 5,1 triệu. Hơn 2 triệu người “lọt sổ” này không trốn đi đâu cả. Nếu anh đến bất cứ ủy ban phường nào mà hỏi thì cán bộ ở đó đều nắm rất vững những người dân đó đang ở đâu. Khi đến các cơ quan địa phương và nói chuyện với người dân thì hầu như ai cũng nói là thiếu qui hoạch, thiếu kiểm soát việc xây dựng. Thoạt nghe người ta sẽ có cảm tưởng rằng đây là một thành phố không có kiểm soát, không ai là người chịu trách nhiệm. Thực ra vấn đề là ở chỗ hệ thống chính quyền khá phức tạp nhưng đang còn phân mảng, chồng chéo và mâu thuẫn về trách nhiệm và quyền lợi – và đây chính là những điều kiện đằng sau những biến đổi hiện nay tại vùng ven của thành phố.
Khi kinh tế thị trường phát triển, vùng ven được công nghiệp hóa và di dân đổ về ngày càng nhiều. Nhiều nông dân bỏ nghề nông, xây nhà trọ trên đất thổ cư và cho thuê. Tại một làng vùng ven phía Tây TP HCM, có 20% số hộ trong làng đã kinh doanh nhà trọ và số người ở trọ khoảng 12.500 người, xấp xỉ số dân của làng. Đây là một hình thức kinh doanh không hợp pháp cả về các qui định xây dựng cơ bản lẫn về hợp đồng thuê nhà mà đã được các cán bộ địa phương chấp thuận và thậm chí khuyến khích. Sự chấp thuận này được lý giải là do nhà trọ không chỉ tạo ra nguồn thu trực tiếp cho chính quyền và người dân địa phương mà còn tạo ra chỗ ở rẻ, và do đó chi phí lao động sẽ thấp và giúp tăng khả năng cạnh tranh của địa phương trong thu hút đầu tư.
Ở một phường ven đô khác, dân cư chỉ có 40,000 người nhưng đã có 200 nhà máy và hơn 1500 cơ sở kinh doanh hộ gia đình. Đi dọc theo các con đường chính trong phường, anh sẽ thấy những nhà máy quy mô nhỏ nằm rải rác, xen lẫn khu dân cư và các cửa hàng kinh doanh trong phường. Nhà ở bình dân và công nghiệp hóa quy mô nhỏ có vai trò rất quan trọng trong việc tạo dựng hình ảnh đô thị hóa vùng ven nhưng dường như đã tuột khỏi sự quản lí của thành phố và nằm trong tay chính quyền cấp thấp hơn. Sự quản lí này càng trở nên khó khăn hơn khi quyền lực nhà nước do chính quyền địa phương nắm giữ không địch lại các quyền lực xã hội khác như một hội đồng thôn, một ông chủ lớn quen biết rộng hay một băng nhóm tội phạm. Thiết chế qui hoạch là rất quan trọng và thiết chế đó phải được đồng thuận trong mọi cấp quản lí của hệ thống chính quyền.
Ở khía cạnh đô thị hóa vùng ven, đâu là hệ quả của ranh giới giữa qui hoạch xây dựng đô thị và kế hoạch hay qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội?
Một ví dụ điển hình là việc các bản qui hoạch chung cũng như các bản qui hoạch ở cấp thấp hơn phản ánh và tôn trọng như thế nào quyền lợi và cuộc sống của người dân trên địa bàn thực hiện qui hoạch. Ở các vùng ven thành phố, sự xuất hiện của các dự án bất động sản qui mô nhiều khi không đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân bản địa mà đồng nghĩa với việc phải di dời đến những nơi ở mới không phù hợp với lối sống và việc kiếm sống của họ. Như vậy qui hoạch xây dựng đô thị không hẳn giúp phát triển kinh tế – xã hội cho những người dân vốn là đối tượng của qui hoạch.
Theo giáo sư, bên cạnh các vấn đề vốn đều nằm trong tay chính quyền như thiết chế trong thực thi và quản lí qui hoạch, hay trong tay giới chuyên môn như việc thu hẹp khoảng cách giữa qui hoạch và kế hoạch, thì điều gì từ chính người dân sẽ giúp nâng cao chất lượng sống trong đô thị?
Tôi nghĩ rằng chất lượng cuộc sống đô thị phụ thuộc rất nhiều vào việc con người đối xử với nhau như thế nào hơn là sự hoành tráng, nguy nga của các tòa nhà. Chính điều này làm cho các thành phố của Việt Nam, nơi giàu có về các giao tiếp nhân bản giữa con người với con người, vẫn là những đô thị tốt để sinh sống. Điều tôi lo lắng là điểm tích cực này dường như đang giảm đi cùng với sự xuất hiện của những khu đô thị mới vốn không có chỗ cho người nghèo. Thách thức lớn nhất đối với thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới là dòng người nhập cư tiếp tục đổ vào thành phố từ các vùng quê và chúng ta sẽ đối xử với những con người đó như thế nào, cũng như những người giàu hơn sẽ đối xử với người nghèo hơn như thế nào!

Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

Nhà sử học Mỹ: Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn của thời đại


Josephine Stenson ( GS Sử học)

 
Bà Josephine Stenson là giáo sư tiến sĩ sử học của trường đại học Florida Atlantic ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ. Đây là bài phát biểu của bà tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội tháng 5 năm 1990. Bài tham luận tiếng Anh, nhan đề "Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn của thời đại" đã được ghi lại và sau đó do Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản. Đây là một bài tham luận rất hay, có nhiều điểm mới mẻ, đặc biệt, cho thấy một cái nhìn khác, một quan điểm mới mẻ thông thóang và đôi chút tế nhị, táo bạo, nhạy cảm về chuyện đời tư, phụ nữ, tình yêu của Bác Hồ, với một góc nhìn từ người ngòai, một phụ nữ, một trí thức Hoa Kỳ.
--------------------------------------------------------
 
 
 
Xin cho phép tôi được mặc chiếc áo dài của người mẹ Việt Nam, người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều thời đại chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình. Và thời nay, có một người mẹ đã sinh ra thiên tài Hồ Chí Minh. Bà cũng đã mặc tà áo này.
 
Hôm nay tôi mặc tà áo này không phải để chưng món quà sang trọng của bạn bè Việt Nam tặng cho tôi. Đây là sự ngưỡng mộ một sắc phục dân tộc mà chưa có một sắc phục phụ nữ nào lại đẹp, có văn hoá, bề dày truyền thống và thanh lịch như chiếc áo dài Việt Nam.
 
Từ Hoa Kỳ, tôi sang Thái Lan và vào Thành phố Hồ Chí Minh, thấy ngỡ ngàng khi nhìn thấy nữ sinh các trường đều mặc áo dài - những chiếc áo dài tuyệt đẹp. Tôi như bị thôi miên cứ đứng nhìn ngây ngất những tà áo dài mềm mại trên thân hình rất đẹp của các nữ sinh.
 
Trong khi đó, một cảm giác buồn tương phản đột nhiên xâm chiếm trong tôi một cách bất ngờ khi tôi nhìn thấy nhiều chị em khác cũng tại thành phố này mặc những bộ đồ mà những người phụ nữ Mỹ chúng tôi đã bỏ từ thập kỷ 60 sang thập kỷ 70. Khi ra Hà Nội tôi hiểu được bề dày về nền văn minh Sông Hồng, nhưng không giống như Thành phố Hồ Chí Minh, phụ nữ ít mặc áo dài, phần lớn họ mặc quần áo giống như phụ nữ Bangkok và Philippines.
 
Hồ Chí Minh là người mà tôi dành nhiều thời gian nhất trong đời nghiên cứu lịch sử của tôi để tìm hiểu cho được đích thực tính cách của ông. Tôi thuộc thế hệ tuổi con cháu Bác Hồ Chí Minh. Cho phép tôi được ca ngợi lời ca muộn màng của người hậu thế. Không phải tôi ca ngợi Hồ Chí Minh vì Việt Nam đã chiến thắng quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh. 
 
Tôi đã tự bỏ tiền túi ra để đi từ Mỹ sang Pháp và Liên Xô cũ: Những nơi mà Hồ Chí Minh đã đặt chân tới đó, để tìm những di tích gốc về Hồ Chí Minh. Tôi đã ở Liên Xô một thời gian tương đối lâu để nghiên cứu về ông. Khi về Mỹ, tôi lại đi từ New York đến các đảo lửa vùng Đông Bắc châu Mỹ, nơi cụ Hồ đã đi tàu xuyên đại dương đến đó. Tôi quyết tâm đi tìm cho được lai lịch văn hóa Hồ Chí Minh, mặc dù ngày đó người ta đã thừa nhận cụ là danh nhân văn hoá của thế kỷ.
 
Rất tiếc, lâu nay Việt Nam chỉ cung cấp cho chúng tôi lai lịch chính trị của Hồ Chí Minh, ngoài ra không cung cấp những tư liệu gì đối với những vấn đề khác. Và tôi cũng hết sức ngạc nhiên và khó hiểu không biết tại sao Việt Nam cứ tuyên truyền rằng cụ Hồ sinh ra trong một gia đình nghèo khổ? Đã nghèo thì làm sao có điều kiện ăn học và làm quan như cụ thân sinh ra ông và trình độ học vấn như ông.
 
Ngoài ra Việt Nam còn tuyên truyền rằng ông Hồ làm phu khuân vác ở Bến Nhà Rồng, bồi bàn dưới tàu Pháp, bồi bếp ở khách sạn Luân Đôn và làm thợ nhiếp ảnh... chỉ toàn là những lao động cơ bắp, không thấy trí tuệ Hồ Chí Minh ở chỗ nào cả! Có lẽ những nhà lãnh đạo Việt Nam lo ngại khi nói đến trí tuệ của ông Hồ Chí Minh thì ảnh hưởng đến đường lối giai cấp của Đảng Cộng sản chăng, vì sợ quần chúng hiểu rằng Bác Hồ là thành phần thuộc tầng lớp trên chứ thực chất không phải là bần cố nông và thợ thuyền, giai cấp lãnh đạo cách mạng?
 
Xin lưu ý, bất cứ một quốc gia nào coi rẻ và khinh miệt trí thức thì nhất định sẽ thất bại, lịch sử đã từng chứng minh thực tế đó.
 
Qua nghiên cứu tôi thấy rằng:
 
- Bác Hồ chọn việc bồi bàn trên tàu là để có điều kiện đi đến được nhiều quốc gia.
 
- Bác Hồ chọn việc làm ở khách sạn là nơi có điều kiện tiếp xúc được với nhiều chính khách.
 
Thế nhưng người ta hiểu sai rằng Bác Hồ làm đủ mọi nghề chỉ là để kiếm sống, không đúng!
 
Tôi đã đến London tìm hiểu và thấy Nguyễn Ái Quốc kết thân với một số nhà đại văn hào, các nghệ sĩ danh tiếng như Romans, Darwin, vua hề Charlie (Sạc-lô)...
 
Người ta đồn rằng cụ Hồ biết 28 thứ tiếng, nhưng theo kết quả tìm hiểu của tôi thì cụ biết khá sành sỏi 12 thứ tiếng.
 
Tôi xin dâng tặng những lời ca đẹp nhất về Hồ Chí Minh, sau khi tôi đã đi đến những nơi có dấu chân ông đi qua, gặp lại những người đã biết về ông và đi đến kết luận rằng Hồ Chí Minh lúc còn trẻ là một thanh niên ... rất đẹp trai, cho nên hiện giờ tôi vẫn cứ mơ ước về ông. Nếu tôi cùng thời với ông thì dứt khoát phải trở thành người yêu của ông. Ông không chấp nhận, tôi cũng đeo đuổi đến cùng... Tôi ngưỡng mộ ông bằng cả đầu óc khoa học của tôi, đồng thời bằng cả trái tim của một người con gái hậu thế.
 
Khi tôi đã yêu ông và tôn kính ông ở góc độ khoa học thì tôi nghĩ ngay đến tượng Nữ thần Tự Do ở quê hương tôi. Tôi là nhà sử học, tôi đã lật ra xem những trang ghi cảm tưởng của mọi chính khách khi họ đến tham quan và chiêm ngưỡng tượng thần Tự Do và ca ngợi thần Tự Do.
 
Nguyễn Tất Thành khi đến New York và cũng đã đến chiêm ngưỡng tượng thần Tự Do như mọi chính khách sau khi đến tham quan thần Tự Do đều ghi cảm tưởng bằng những lời ca ngợi Ngôi sao tỏa sáng trên vòng Nguyệt quế là ánh sáng tự do... Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành đến xem thần Tự Do, nhưng chỉ nhìn dưới chân tượng và ghi: “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?
 
Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống chân tượng thần Tự Do và ghi lại những ý kiến trên. Nguyễn Tất Thành nhìn số phận con người, không chiêm ngưỡng hào quang tỏa sáng từ bức tượng thần Tự Do. Chính vì thế mà hôm nay tôi đến đây tìm đến con người này - Hồ Chí Minh - để xem giữa lời nói và việc làm của ông có tương phản không?
 
Hồ Chí Minh quả thật là con người nói và làm đi đôi. Tôi đã vào nhà của ông. Lục tìm của riêng của ông. Ông không có của riêng. Thật rất lạ và hiếm thấy, chính khách nào khi cầm quyền đều ban hành sắc lệnh tôn trọng và bình đẳng cho phụ nữ nhưng khi sắc lệnh ký xong thì bản thân họ lại vào nhà thổ, cho phép phát triển kỹ nghệ “đàn bà”. Thậm chí một vị Tổng thống có đến 3 - 4 tình nhân. Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất Thành đứng trước Tượng thần Tự Do ghi những điều trên khi mình còn lầm than, rồi khi mình làm Chủ tịch một nước và khi qua đời, trên giường ông vẫn vắng hơi ấm của đàn bà. Con người khi làm Chủ tịch nước 24 năm đến lúc qua đời trên giường không có hơi ấm của đàn bà.
 
Hồ Chí Minh là một người cộng sản vĩ đại, là một siêu nhân, ông càng vĩ đại hơn ở chỗ ông là một con người bình thường sống hòa lẫn vào trong cuộc sống của xã hội chứ không phải siêu phàm.
 
Tôi đọc nhiều tư liệu về ông và biết ông được nhiều phụ nữ yêu thương. Bà Lared theo đuổi Nguyễn Ái Quốc nhiều năm. Trong những đêm đi họp chi bộ về hai người đi bên nhau trên bờ sông Seine, bà tỏ tình mà Nguyễn Ái Quốc không mềm lòng. Khi bà qua đời, để lại cuốn nhật ký, tôi được đọc quyển nhật ký đó và hiện giờ con gái bà đang giữ. Con bà cũng nói với tôi: “Mẹ tôi yêu Nguyễn Ái Quốc”. Đấy, tôi phải đi tìm cho được những bằng chứng như vậy mới đủ cơ sở khẳng định nhân cách một con người của thời đại. Đúng, Hồ Chí Minh là nhân cách của thời đại.
 
Tôi cũng đến khách sạn Boston, ở Đông Bắc nước Mỹ, nơi Nguyễn Tất Thành ở đó làm thợ nặn bánh mì gần một năm trời và sau này chính các nhà đại văn hào châu Âu qua Mỹ đều ở Khách sạn này. Nguyễn Tất Thành đã ghi lại tên tất cả những chính khách đến ở trong khách sạn Boston.
 
Tại đây có một cô gái quốc tịch Mỹ gốc Pháp tên Côlét đã yêu say đắm Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Tất Thành rất thích nghe hát và xem kịch, nhất là kịch cổ điển. Được biết Hồ Chí Minh rất yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ thuật rất phong phú, nhưng Nguyễn Tất Thành rời nước ra đi không phải để hoạt động chính khách mà ông đi tìm đường cứu dân tộc. Côlét khuyên dụ ông đi với bà và tỏ ý muốn kết hôn với Nguyễn Tất Thành, nhưng ông đã tìm cách an ủi Côlét để từ chối. Sau đó một thời gian, Côlét trở thành một nhà văn lớn có tên tuổi. Nguyễn Tất Thành tâm sự và bà Côlét kể lại: “Nếu tôi muốn có một văn bằng thì tôi đã thi năm 1904 ở trong nước, vì lúc đó tôi có một người con gái quê nhà yêu mà đành bỏ lại trên bến Cảng để ra đi”.
 
Vừa rồi, tôi có đọc một bài hồi ký đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự của Viện quân sự Hoa Kỳ, do một số sĩ quan Anh - Mỹ trong đội quân của Đồng minh khi sang Đông Dương đóng ở Cao Bằng, “Tôi sống cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu khởi nghĩa”. Họ kể lại, có dịp tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, họ hỏi:
 
- Không phải tò mò mà trên danh nghĩa là đàn ông với nhau, tại sao Chủ tịch không lấy vợ, không lập gia đình?
 
Hồ Chí Minh trả lời một cách chân tình và thân mật: Khi còn trẻ phải đi hoạt động cách mạng, khi giành được độc lập thì đã già, nên không dám tính chuyện đó. Trước khi tôi ra đi, tôi có yêu một người con gái, người con gái đó cũng rất yêu tôi. Nhưng phải dừng lại về chuyện yêu đương, sau nhiều năm mất liên lạc, tôi không biết người con gái đó đang ở đâu, còn hay mất.
 
Tôi đã đi Quảng Châu và tôi biết Nguyễn Ái Quốc còn có một người yêu nữa tên Lý Phương Liên (bí danh) thư ký của Đông Phương bộ thuộc cục Phương Nam là vợ của Lý Thụy (cụ Hồ) ở phố Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc. Thực tiễn cuộc sống có những việc nhìn thấy tận mắt chưa hẳn là thật. Khi ông Phạm Văn Đồng cùng một số người trong tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội sang dự một khóa học chính trị tại nhà số 13 phố Văn Minh cũng tưởng Lý Phương Liên là "vợ" của Lý Thụy, nhưng sau mới biết thực tế không phải như vậy, đây chỉ là việc ngụy trang để che mắt mật thám.
 
Tôi không coi vấn đề này quan trọng, tuy vậy thời gian tôi đến Liên Xô, tôi cũng biết có một cô gái Nga yêu ông, yêu tới mức bà ta không lấy được Nguyễn Ái Quốc và suốt đời ở vậy cho đến già rồi chết. Có một nhân chứng người Nga được bà ta tâm sự kể lại với tôi rằng: “Hai người yêu nhau, nhưng không dám lấy. Nguyễn Ái Quốc nói lấy vợ thì phải để lại địa chỉ, phải có con, phải có trách nhiệm làm chồng, làm cha và rồi thế nào mật thám cũng phát hiện ra, cho nên Nguyễn Ái Quốc không lấy vợ và tôi cũng không lấy chồng."
 
Dân tộc Việt Nam mãi mãi nên tự hào về Hồ Chí Minh, nền văn minh nhân loại của thế kỷ XX này luôn tự hào có một vĩ nhân được cả thế giới, đại diện bởi UNESCO, phong tặng Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương sáng về nhân cách một người thời đại cho mọi thế hệ tiếp sau.
 
Josephine Stenson 
Hà Nội, tháng 5 năm 1990
Nguồn: