Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2012

CẤU TRÚC LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU BIỂU TƯỢNG: TỪ KÝ HIỆU HỌC ĐẾN NHÂN HỌC BIỂU TƯỢNG (PHẦN 2)


Nguồn: Trang lý luận văn học


Đinh Hồng Hải

 4. Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn nhân học biểu tượng
Trong cuốn sách nổi tiếng về nhân học biểu tượng của mình (Biểu tượng: Chung và Riêng), Raymond Firth đã phân biệt nhân học biểu tượng với khoa học nghiên cứu biểu tượng từ các chuyên ngành khác như sau:
“Một nhà nhân học có thể làm gì để không giống với những gì mà nhà logic học, nhà siêu hình học, nhà ngôn ngữ học, nhà tâm lý học, nhà thần học, nhà lịch sử nghệ thuật và những người khác nữa đã làm? Về bản chất như tôi nhận thấy, cách tiếp cận theo hướng nhân học mang tính so sánh, quan sát, chức năng luận, trung lập tương đối. Nó liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể. Vượt qua phạm vi rộng lớn của những trường hợp cụ thể, các nhà nhân học quan sát xem những biểu tượng gì được con người sử dụng thực sự, họ nói gì về những biểu tượng ấy, trong tình huống nào những biểu tượng sẽ bộc lộ ra và sự phản ứng với chúng. Theo đó, các nhà nhân học được trang bị để giải thích ý nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họ đang nghiên cứu, và để sử dụng những lý giải như những phương tiện trung gian để hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội” (Firth 1973, tr.25 – phần in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh).
Ở chuyên mục trên, chúng ta đã được tiếp cận khoa học nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn ký hiệu học trong mối quan hệ hết sức chặt chẽ với cấu trúc luận. Trong nhân học, hướng tiếp cận cấu trúc luận cũng đã được Claude Levi-Strauss sử dụng hết sức thành công trong công trình nổi tiếng của ông: Nhân học cấu trúc. Thế nhưng không một ai gọi Levi-Strauss là nhà nhân học biểu tượng(!) mà chỉ nhắc đến ông với vai trò của một nhà nhân học cấu trúc. Điều này có thể do hai nguyên nhân sau:
Nguyên nhân thứ nhất, Levi-Strauss đã được coi như ông tổ/cha đẻ/người xây nền… (rất nhiều danh xưng – xin xem thêm tiểu sử của ông trong bách khoa thư) đối với nhân học hiện đại. Ông còn được gọi là nhà xã hội học hiện đại, nhà cấu trúc luận, là “ông tổ”của nhân học cấu trúc,v.v… Bằng ấy danh xưng, có lẽ, cũng đã quá đủ để nói lên sự vĩ đại của nhà khoa học này. Có thể vì vậy mà người ta “quên” mất những đóng góp của ông đối với nhân học biểu tượng chăng? 
Nguyên nhân thứ hai cụ thể hơn từ quan điểm cấu trúc luận: “Claude Levi-Strauss cho rằng phân loại nhị nguyên (binary clasification) là một điểm đặc trưng phổ quát của nhận thức con người. Các nghiên cứu mở rộng của ông đối với thần thoại, nghệ thuật và hệ thống thân tộc đã khám phá ra những hình mẫu văn hoá khác nhau ở mức độ phức tạp và diện mạo bên ngoài, về bản chất, dựa vào tính đối ngẫu: tự nhiên/văn hoá, đàng ông/đàn bà, tinh khiết/không tinh khiết,v.v… Hệ thống văn hoá, dưới góc nhìn này, với những nền tảng tinh vi của nó đã khai hoá thế giới, xã hội hoá nó, đưa ra sự phân loại tuỳ theo biểu hiện của tự nhiên. Mối quan tâm của các nhà cấu trúc luận trong các hệ thống văn hoá của ý nghĩa ở những gì họ có thể bộc lộ ra và khi nào thì phân tích về tiến trình nhận thức phổ quát của con người” (Mary Des Chene, 1996).[1] Đây chính là đóng góp quan trọng của Levi-Strauss đối với nghiên cứu biểu tượng cũng như với nhân học văn hoá nói chung. Nhưng trước hết chúng ta cần xác định đối tượng và mục đích nghiên cứu của nhân học biểu tượng, để từ đó thấy được tầm quan trọng của nền tảng cấu trúc luận đối với nhân học biểu tượng mà Levi-Strauss là người có công đóng góp rất lớn.
Theo tài liệu giảng dạy của Khoa Nhân học, Học viện Công nghệ Massachusetts-MIT (Mã môn học: 21A.212), nhân học biểu tượng bao gồm các lĩnh vực nghiên cứu sau:
  1. Ẩn dụ và biểu hiện khác của ngôn ngữ (Metaphor and Other Figurative Language)
  2. Chất liệu thô của biểu tượng luận, đặc biệt là động vật và cơ thể con người (The Raw Materials of Symbolism, especially Animals and The Human Body)
  3. Vũ trụ luận và hệ thống biểu tượng phức hợp (Cosmology and Complex Symbolic Systems)
  4. Nghi lễ, bao gồm cả điều trị và ma thuật mang tính biểu tượng (Ritual, including Symbolic Curing and Magic)
  5. Miêu thuật và đời sống (Narrative and Life)
  6. Thần thoại học (Mythology)
Qua đây chúng ta có thể xác định (một cách tương đối) các đối tượng nghiên cứu của nhân học biểu tượng là: Ẩn dụ, ngôn ngữ, hệ thống biểu tượng, nghi lễ, ma thuật, đời sống, biểu tượng luận, vũ trụ luận, và thần thoại. Nói một cách khái quát là các thành tố văn hoá có tính biểu tượng trong đời sống của con người.
Định nghĩa về nhân học biểu tượng theo các bách khoa thư nhân học lớn trên thế giới như sau:
- Bách khoa thư nhân học văn hoá và xã hội (Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology): “Nhân học biểu tượng đề cập đến văn hoá như một thực thể có tính độc lập tương đối, là một hệ thống ý nghĩa mà qua đó các nhà nhân học muốn tạo ra để giải mã và diễn dịch các biểu tượng và các nghi lễ trọng tâm” (Jonathan Spencer, 1996, tr.535-539).
- Bách khoa thư nhân học văn hoá (Encyclopedia of Cultural anthropology): “Nhân học biểu tượng là khoa học nghiên cứu ý nghĩa trong đời sống xã hội loài người, bằng cách nào chúng ta tri nhận và diễn giải những gì diễn ra xung quanh và bằng cách nào chúng ta sáng tạo và sẽ chia với thế giới hoặc hệ thống ý nghĩa văn hoá. Nhân học biểu tượng tiếp cận với một góc nhìn rộng lớn về các biểu tượng, biểu tượng hoá, sự vật và ý nghĩa mà con người đặt cho với ý nghĩa, sự nhận biết, quá trình giao tiếp”(Mary Des Chene, 1998, tr.1274-1278).
Văn hoá dân gian: Bách khoa thư về các tín ngưỡng, phong tục, chuyện kể, âm nhạc và nghệ thuật (Folklore: An encyclopedia of beliefs, customs, tales, music, and art): “Nhân học biểu tượng là khoa học nghiên cứu về các biểu hiện tự nhiên của các biểu tượng được sử dụng ở các nền văn hoá khác nhau, các nghi lễ, trình diễn, và trong đời sống hàng ngày nơi mà ý nghĩa đầy đủ có nhiều hơn các biểu hiện thành văn. Mỗi biểu tượng có hai thành phần – là những thực thể nhìn thấy và phần còn lại là ý nghĩa biểu hiện của nó. Nhân học biểu tượng diễn giải các biểu tượng trong ngữ cảnh của tiến trình xã hội và đời sống văn hoá” (Edith Turner, 1997, tr.24-29).
Có thể nhận thấy đối tượng được nhắc đi nhắc lại trong các định nghĩa trên là “văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó,” đây là đối tượng chính của nhân học biểu tượng. Trong khi văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó lại là đối tượng mà các nhà kí hiệu học đã đề cập đến trước khi nhân học biểu tượng ra đời tới hơn nửa thế kỷ(!). “Điều đó cho thấy kí hiệu học và nhân học biểu tượng tuy là những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nhưng đều hướng tới một mục tiêu chung là nghiên cứu văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó thông qua ngôn ngữ biểu tượng. Đây là những phương pháp tiếp cận khác nhau (giữa kí hiệu học và nhân học biểu tượng) với những cách tiếp cận phương pháp khác nhau nhưng vẫn chỉ để giải quyết một vấn đề chung đó là nghiên cứu ý nghĩa của các biểu tượng văn hoá” (Đinh Hồng Hải, 2010a). Và trên thực tế, các nhà khoa học đã có những sự khẳng định về sự kế thừa đó: “Nhân học biểu tượng tiếp quản từ cấu trúc chức năng luận một tiền đề cho rằng các hệ thống văn hoá xã hội phô bày một sự cố kết toàn bộ và một sự quan tâm đối với những ảnh hưởng của thực tại xã hội về hệ thống tín ngưỡng, đặc biệt là trong những hướng xây dựng biểu tượng trên các cơ sở lý luận văn hoá” (Lavie, 1993).[2]
Có thể thấy, từ đối tượng nghiên cứu đến mục đích nghiên cứu của nhân học biểu tượng đều đã được đề cập tới trong cấu trúc luận của Levi-Strauss. Ở đây chỉ có sự khác biệt về phương pháp tiếp cận: Levi-Strauss tiếp cận dưới góc nhìn cấu trúc và các nhà nhân học biểu tượng (như Geertz, Turner, Schneider,…)[3] tiếp cận bằng sự diễn giải. Nhưng dù tiếp cận bằng cấu trúc hay diễn giải thì mục tiêu cuối cùng cũng là để nghiên cứu văn hoá và hệ thống ý nghĩa của nó, hay nói cách khác là để giải mã các thành tố văn hoá trong đời sống của con người. Đây chính là điểm tương đồng và cũng là đặc điểm của nhân học biểu tượng cũng như các bộ môn khoa học nghiên cứu về biểu tượng như ký hiệu học hay nhân học cấu trúc. Đó có thể là lý do để nhân học biểu tượng được gọi bằng một cái tên khác là nhân học diễn giải (interpretive anthropology). Ở đây chúng ta có thể nhận thấy sự diễn giảichính là một thành tố trọng tâm trong các mô hình cấu trúc của Roland Barthes, Charles S. Peirce, Umberto Eco, Michel Foucault,… đã sử dụng trong cấu trúc luận. Điều đó cho thấy, dù được gọi bằng một cái tên khác (nhân học biểu tượng) và được sử dụng bằng một khuynh hướng lý thuyết khác (diễn giải) để phản ứng lại lý thuyết (cấu trúc luận) của Levi-Strauss nhưng cuối cùng các nhà nhân học biểu tượng vẫn không thể bỏ qua những nền tảng mà cấu trúc luận đã tạo ra. Nói cách khác, nhân học biểu tượng chính là “ngôi nhà” đã được xây trên nền móng của cấu trúc luận.
THAY LỜI KẾT
Thật khó để nói khoa học nghiên cứu biểu tượng gần với chuyên ngành nào hơn trong các chuyên ngành gần gũi với nó như ngôn ngữ học, ký hiệu học và nhân học. Chúng ta cũng không thể bỏ qua vai trò của những chuyên ngành khác “ít gần” hơn như triết học, logic học, xã hội học,… bởi tuy “ít gần” nhưng nghiên cứu biểu tượng lại cũng không thể thiếu chúng. Vì vậy, việc xác định nghiên cứu biểu tượng là một khoa học liên ngành không chỉ đúng trong hiện tại mà còn phù hợp cả trong tương lai. Điều mà chúng ta cần xác định, thậm chí phải xác định sớm, là một khung lý thuyết và phương pháp luận dành cho đối tượng nghiên cứu vô cùng hấp dẫn nhưng cũng hết sức phức tạp này. Theo chúng tôi, trong bối cảnh của khoa học xã hội hiện nay thì cấu trúc luận chính là một lý thuyết phù hợp nhất. Bởi lẽ, cấu trúc luận không chỉ là thành tố quan trọng trong ngôn ngữ học, ký hiệu học mà còn là “xương sống” trong lý thuyết của nhân học, đặc biệt là nhân học cấu trúc và nhân học biểu tượng, vì vậy, nó có thể kết nối các khoa học chuyên ngành đó trong cùng một hệ thống lý thuyết dành cho khoa học nghiên cứu về biểu tượng.
Trên thực tế, cấu trúc luận không chỉ là một lý thuyết phù hợp với một khoa học liên ngành nghiên cứu biểu tượng mà còn được sử dụng có hiệu quả đối với nhiều chuyên ngành khác trong khoa học xã hội. Chẳng hạn với triết học – “triết học của chủ nghĩa cấu trúc là thứ “triết học văn hoá” nghĩa là sự nhận thức những nguyên lý hình thành, những cơ sở chung nhất chi phối mọi lĩnh vực của đời sống văn hoá” (Trịnh Bá Đĩnh, 2011). Xét rộng ra, đối với khoa học liên ngành nghiên cứu văn hoá, cấu trúc luận sẽ là phương pháp khả dĩ có thể giúp chúng ta tìm được hướng đi cụ thể để xác định được những đặc trưng văn hoá của một quốc gia hay cộng đồng người. Đây cũng chính là một trong những mục tiêu quan trọng của nghiên cứu văn hoá trong một thế giới toàn cầu hoá.
Trong bối cảnh hiện nay, nghiên cứu biểu tượng tuy nhận được sự chú ý của nhiều người và nhiều tầng lớp xã hội (bằng chứng như đã dẫn ở chú thích số 5) nhưng đôi lúc nó mang đến cho giới khoa học một cái nhìn hồ nghi. Sự hồ nghi này là có cơ sở, bởi vì ý nghĩa của các biểu tượng luôn có sự thay đổi mà chúng tôi gọi là “đặc tính khó lường” của nó. Bên cạnh những thay đổi tuỳ thuộc vào thời gian và không gian, cũng như sự ra đời và tồn tại của nó, sự thay đổi đó còn đến từ mục đích của người sử dụng và vô số lý do khác. Có thể tóm tắt diễn trình của khoa học nghiên cứu biểu tượng bằng sơ đồ sau:
CBĐ
Cái biểu đạt

KH
Ký hiệu

NNBT
Ngôn ngữ biểu tượng

BT
Biểu tượng
ND
Nội dung

MĐSD
Mục đích sử dụng
CĐBĐ
Cái được biểu đạt
HT
Hình thức
                                                      Diễn trình của biểu tượng
Để có thể xoá bỏ được những sự hồ nghi nói trên, giải pháp khả thi là phải tìm hiểu các biểu tượng trong chính môi trường “sống” của nó. Và để làm việc đó thì nhân học, với thế mạnh về các phương pháp chuyên biệt như điền dã thực địa(fieldwork) hay quan sát tham dự (participant observation), sẽ là những biện pháp tối ưu. Vấn đề này đã từng được Raymond Firth đề cập đến gần nửa thế kỷ trước: “Tiếp cận nhân học, với việc áp dụng một cách đầy đủ, sẽ có mục tiêu riêng của nó để đưa ra một sự mô tả mang tính hệ thống và phân tích một hành động mang tính biểu tượng bằng phương diện ngôn từ và phi ngôn từ của nó; để phân biệt các thành phần có ý nghĩa của hành động nói trên từ những gì ngẫu nhiên; để đánh dấu những thói quen hoặc các yếu tố chuẩn mực ngược lại với những gì thuộc về cá nhân và các phong cách riêng; làm sáng tỏ từ chính người đang thực hiện hành động, những người tham gia và những người không tham gia với những ý nghĩa mà họ đã gắn kèm với hành động; và để đưa tất cả những cái đó vào một khung khái niệm chung, và trong một khung cảnh cụ thể với vị thế và mối quan hệ nhóm của những người liên quan” (Raymond Firth 1973, tr. 27). Có thể thấy, “khung khái niệm chung” mà Firth đề cập ở đây chính là hệ thống lý thuyết mà chúng ta đã bàn xuyên suốt nội dung của nghiên cứu này.
Để kết thúc bài viết, chúng tôi xin trích lại lời đề dẫn (trong chương trình giảng dạy tại Khoa Nhân học, Học viện Công nghệ Massachusetts) của GS. James Howe: “Sự kiến tạo nên các biểu tượng của con người cũng giống như việc sử dụng công cụ của loài vật. Công việc tìm hiểu thế giới và bảo vệ cuộc sống của chúng ta phần lớn thể hiện các ý nghĩa đối với đồ vật, sự vật, hiện tượng và con người bằng sự kết nối chúng với nhau thông qua hình mẫu của các biểu tượng và bằng sự sáng tạo nên các dạng thức phức tạp của những hành động biểu tượng và sự diễn giải. Ở đây chúng ta tìm hiểu các biểu tượng đã được sáng tạo và cấu trúc như thế nào? Chúng biểu hiện ra sao và có ý nghĩa thế nào đối với các phần còn lại của thế giới? Chúng đan dệt nên đời sống chính trị, gia đình, vòng đời người… Làm cách nào để diễn giải được chúng?.”[4] Câu hỏi của GS. James Howe đặt ra ở đây chính là nhiệm vụ của các nhà khoa học nghiên cứu biểu tượng trong giai đoạn hiện nay. Đó là sự cần thiết phải có một hệ thống lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu, mà theo chúng tôi, cấu trúc luận sẽ là một nền tảng lý thuyết cơ bản. Rất có thể đây sẽ là khung xương để các nhà khoa học xây dựng nên một bộ môn khoa học liên ngành có tên gọi: Nghiên cứu biểu tượng hay biểu tượng học.
CHÚ THÍCH:
[1] Nguồn: Bách khoa thư Nhân học văn hoá (Encyclopedia of Cultural Anthropology) do David Levinson và Melvin Ember biên tập. Sách do nhà xuất bản Henry Holt & Company ấn hành tạiNew York năm 1996, tr.1275.
[2] Nguồn: Bách khoa thư Nhân học văn hoá, Sđd, tr. 1275. Dẫn theo Mary Des Chene.
[3] Clifford Geertz sinh năm 1923, là một trong những nhà nhân học thế hệ mở đầu của các trường phái nhân học Mỹ được đào tạo tại Đại học Harvard. Phần tổng hợp nói trên được lấy từ: Clifford Geertz, The Interpretation of Cultures. New York: Basic Books, Inc, 1973. Victor W. Turner (1920-1983) quê Glasgow, học tại London, ông thuộc thế hệ các nhà  lý thuyết nhân học đầu tiên ảnh hưởng tư tưởng của Max Gluckman tại Đại học Manchester, Turner sau đó giảng dạy tại đại học Stanford, Cornell, Chicago và Virginia. Davis M. Schneider (1918 – 1995) với trường phái Chicago về nhân học biểu tượng, tiến sĩ tại đại học Harvard – 1949.
[4] Department of Anthropology, Massachussetts Institute of Technology, http://web.mit.edu/anthropology 
 Tài liệu trích dẫn:
  1. Carl G. Liungman 1991, Dictionary of Symbols, W.W. Norton&Company, New York&London
  2. Charles S. Peirrce 1931, Collected papers, Ed. Charles Hartshorne, Harvard University Press
  3. Claude Levi-Strauss 1963, Structural Anthropology, Basic Books
  4. Claude Levi-Strauss 2001, Myth and Meaning, Routledge books
  5. Claude Levi-Strauss 2011, 1950, trong: Marcel Mauss, Luận về biếu tặng: Hình thức và lý do của sự trao đổi trong các xã hội cổ sơ, Nguyễn Tùng dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội
  6. Clifford Geertz 1973, The Interpretation of Cultures,New York: Basic Books, Inc.
  7. Clifford Geertz 1974, Myth, Symbol, and Culture,New York: W.W. Norton and Company, Inc.
  8. David Schneider, Kemnitzer, and Janet Dolgin 1977, Symbolic Anthropology: A Reader in the Study of Symbols and Meanings,ColumbiaUniversity Press
  9. David Schneider 1980, American Kinship: A Cultural Account. 2nd edition. Chicago and London: University of Chicago Press
  10.  Cao Việt Dũng 2009, Mô hình phát triển của kiến thức theo Michel Foucault, Tạp chí Tia sáng, trong: http://vn.360plus.yahoo.com/hoangnguuson/article?mid=260&fid=-1
  11.  Trịnh Bá Đĩnh 2011, Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb. Hội Nhà văn
  12.  Edmund Leach 2006, trong: ĐHKHXH&NV-ĐHQG Tp. HCM, Một số vấn đề lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu nhân học, Nxb. ĐHQG Tp. HCM
  13.  Edith Turner 1997, trong: Thomas A. Green, Folklore: An encyclopedia of beliefs, customs, tales, music, and art, ABC Clio
  14.  Ferdinand de Sausure 1915, Course in General Linguistics, Translated by Wade Baskin, McGraw-Hill Book
  15.  Đinh Hồng Hải 2007, Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân học biểu tượng ở Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Dân tộc học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội
  16.  Đinh Hồng Hải 2010a,  Nghiên cứu văn hoá từ góc nhìn nhân học biểu tượng, Tạp chí Dân tộc học, số 5 năm 2011.
  17.  Đinh Hồng Hải 2010b, Ngôn ngữ biểu tượng trong văn hóa Cơtu (Symbolical Language in Katu Culture)Báo cáo hoàn thành chương trình Nghiên cứu sinh trao đổi tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ 2008-2010 (bản tiếng Anh).
  18.  Nguyễn Văn Hậu 2010, Về tính hình tượng và tính biểu tượng trong tác phẩm văn hóa, nghệ thuật, http://www.huc.edu.vn
  19.  Huyền Sâm, Ngọc Anh, Nhà ký hiệu học Umberto Eco và tiểu thuyết, Tạp chí Sông Hương online, 14/10/2009
  20.  Jonathan Spencer 1996, trong: Alan Barnard & Jonathan Spencer, Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology,London andNew York: Routledge
  21.  Mary Des Chene 1998, trong: David Levinton & Melvin Ember, Encyclopedia of Cultural Anthropology, Vol. 4, pp 1274 – 1278
  22.  Michel Foucault 2002, The Order of Things: An archaeology of the human sciences, Routledge,London &New York
  23.  Raymon Firth 1973, SymbolsPublic and private, London, George Allen & Unwin Ltd.
  24.  Roland Barthes 1972, Annette Lavers translated, Mythologies, Straus Farrar & Giroux
  25.  Roman Jakobson 1971, Language in relation to other communication systems, Selected writings Vol.2, The Hague Mountain 
  26.  Terence Hawkes 1977, Structuralism and Semiotics, University of California Press
  27.  Trung tâm Từ điển bách khoa, Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Namwww.bachkhoatoanthu.gov.vn
  28.  Umberto Eco 1976, A Theory of Semiotics, (Bloomington &London,Indiana University Press
  29.  Umberto Eco 1994, Apocalypse Postponed, edited by Robert Lumley,Bloomington, Indiana University Press
  30.  Victor Turner 1967, The Forest of Symbols: Aspects of Ndembu Ritual,Ithaca andLondon:CornellUniversity Press
  31.  Victor Turner 1974, Dramas, fields and metaphors: Symbolic action in Human society, Cornell University Press
Bản tác giả gửi Lyluanvanhoc.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét