Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2012

CẤU TRÚC LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU BIỂU TƯỢNG: TỪ KÝ HIỆU HỌC ĐẾN NHÂN HỌC BIỂU TƯỢNG (PHẦN 1)


Nguồn: Trang lý luận văn học. Tôi không thể dẫn link vì  được báo trang này nhiễm virut.

Đinh Hồng Hải

Đặt vấn đề
Khoa học xã hội nói chung và khoa học nghiên cứu biểu tượng nói riêng đã được du nhập vào Việt Nam từ hơn 100 năm qua theo hướng tiếp cận hàn lâm của phương Tây. Cho đến nay, các nghiên cứu khoa học xã hội trên bình diện văn bản học (như văn học, sử học, triết học, ngôn ngữ học,…) đã đạt được khá nhiều thành tựu, trong khi nghiên cứu biểu tượng (như ký hiệu học, nhân học biểu tượng,…) dường như vẫn đang là một mảnh đất còn bỏ trống với số lượng các công trình nghiên cứu chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí trong số những nghiên cứu ít ỏi đó, chưa một công trình nào thực sự “đặt nền móng” cho một khoa học nghiên cứu về biểu tượng. Tại sao có tình trạng như vậy? Thật khó để đưa ra một câu trả lời đầy đủ, nhưng nếu xét trên bình diện chung của các bộ môn khoa học có liên quan đến nghệ thuật và biểu tượng, chúng ta có thể nhận thấy: Thiếu nền tảng lý thuyết và phương pháp luận chính là mấu chốt của vấn đề.
Trên thực tế, đã có nhiều hệ thống phương pháp luận nghiên cứu có liên quan đến nghệ thuật và biểu tượng trên thế giới ra đời trên cơ sở lý thuyết nghiên cứu của các chuyên ngành như triết học, văn học, dân tộc học, mỹ học, đặc biệt là ký hiệu học. Một trong những lý thuyết có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, được coi như một “cuộc cách mạng” về lý thuyết trong khoa học xã hội thế kỷ XX, là cấu trúc luận(structuralism). Cho đến nay, cấu trúc luận đã được sử dụng làm một trong những lý thuyết nền tảng của nhiều chuyên ngành khác nhau trong khoa học xã hội nhưnhân học cấu trúc (structural anthropology), ngôn ngữ học cấu trúc (structural linguistics), ký hiệu học văn hoá (cutural semiology),v.v… Trong nội dung của nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đề cập đến cấu trúc luận và việc sử dụng khung lý thuyết này dưới góc nhìn ký hiệu học và nhân học biểu tượng như một hướng tiếp cận cụ thể đối với nghiên cứu biểu tượng trong giai đoạn hiện tại.
 1. Cấu trúc luận với ngôn ngữ học và ký hiệu học
Cấu trúc luận là một lý thuyết khoa học được sáng lập bởi nhà ngôn ngữ học Thuỵ Sỹ – Ferdinand de Saussure cách đây gần một thế kỷ.[1] Ban đầu cấu trúc luận chỉ sử dụng trong phạm vi của ngôn ngữ học, nhưng với phương pháp tiếp cận ký hiệu học, nó nhanh chóng mở rộng tầm ảnh hưởng đến nhiều ngành khoa học xã hội khác trở thành một trong những lý thuyết quan trọng nhất đối với khoa học xã hội và nhân văn trong thế kỷ XX. Ngay tại thời điểm đưa ra những nguyên lý căn bản của cấu trúc luận, Ferdinand de Saussure đã tiên đoán được tầm ảnh hưởng của nó sẽ vượt ra ngoài phạm vi của ngôn ngữ học với một nhận định hết sức chính xác: “Một ngành khoa học nghiên cứu về sự tồn tại của các ký hiệu trong đời sống xã hội là hoàn toàn phù hợp, khoa học này sẽ là một phần của tâm lý học xã hội và do đó cũng là một phần của tâm lý học nói chung; tôi sẽ gọi nó là ký hiệu học – semiology (trong tiếng Hy Lạp semeion có nghĩa là “ký hiệu”). Ký hiệu học sẽ nghiên cứu về những yếu tố cấu thành của ký hiệu, những quy luật chi phối chúng. Khi ngành khoa học này chưa ra đời, không một ai có thể nói nó thực sự là cái gì; nhưng nó có quyền được tồn tại, tại một nơi đã được chọn trước. Ngôn ngữ học cũng chỉ là một phần trong khoa học về ký hiệu học nói chung; những quy luật được khám phá trong ký hiệu học sẽ được ứng dụng vào ngôn ngữ học, và sau cùng nó sẽ giới hạn rạch ròi tại một khu vực trong tổng thể các lĩnh vực của nhân học” (Ferdinand de Sausure 1915, tr.16).
Tới nay, gần 100 năm sau ngày ông qua đời (1913), cấu trúc luận của Ferdinand de Saussure vẫn được các nhà khoa học nối tiếp nhau mở rộng và đào sâu thêm các khái niệm chỉ từ một mô hình cấu trúc ban đầu vô cùng đơn giản:


Ký hiệu (Sign) =


Cái biểu đạt (Signifier)

Cái được biểu đạt (Signified)
Theo đó: “Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần: cái biểu đạt (le signifiant) và cái được biểu đạt (le signifié). Cái biểu đạt là một hình ảnh thính giác, cái được biểu đạt là một khái niệm. Không có mối liên hệ tất yếu nào giữa ký hiệu với vật được chỉ định, hay như người ta thường nói, liên hệ giữa chúng là võ đoán” (Trịnh Bá Đĩnh 2011).
Từ mô hình trên nhiều nhà khoa học như Romand Jakobson, Roland Barthes, Louis Hjelmslev, Jacques Derrida, Claude Levi-Strauss, Michel Foucault,… đã tiếp tục phát triển cấu trúc luận dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, cả trong cũng như ngoài ngôn ngữ học, hình thành nên một hệ thống lý thuyết về cấu trúc vô cùng phong phú dựa trên nền tảng ký hiệu học. Với góc độ tiếp cận rộng lớn như vậy, thuật ngữ ký hiệu (sign) trong ngôn ngữ học cơ bản đã phát triển thành một thuật ngữ chung được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau để chỉ một khái niệm mới rộng lớn hơn bao gồm mọi ký hiệu, dấu hiệu, tín hiệu, sự vật, hiện tượng, lời nói, cử chỉ, hành động,… có tính thông tin. Và ngôn ngữ cũng không còn là một thuật ngữ riêng của ngôn ngữ học mà nó bao hàm mọi thành tố được con người biểu thị. Theo Roman Jakobson, hệ thống ký hiệu này bao gồm “mọi loại thông tin được tạo bởi các ký hiệu; tương ứng với điều đó, khoa học về các ký hiệu được gọi bằng thuật ngữ ký hiệu học có quan hệ với các yếu tố nền tảng cơ bản này là cơ sở cho cấu trúc của tất cả các ký hiệu bất kỳ loại nào, và với những đặc tính của chúng trong nội hàm thông tin, cũng như với những đặc trưng riêng biệt của các hệ thống ký hiệu khác nhau, và trong vô vàn loại thông tin khác nhau được sử dụng bằng các loại ký hiệu khác nhau.” (“Ngôn ngữ trong mối liên hệ tới các hệ thống giao tiếp khác” Tuyển tập Roman Jakobson, Tập II, tr.698)[2].
Trên cơ sở các lý thuyết mở rộng như trên, Louis Hjelmslev đã mô hình hoá khái niệm của Ferdinand de Saussure bằng sơ đồ: 
 
Đóng góp quan trọng nhất của L.Hjelmslev là sự phân biệt giữa“Ký hiệu học biểu thị” với “Ký hiệu học hàm nghĩa.” Hệ thống ký hiệu thông thường là hệ thống ký hiệu biểu thị. Còn hệ thống ký hiệu hàm nghĩa là một hệ thống ký hiệu mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ thống ký hiệu biểu thị (Nguyễn Văn Hậu, 2010).
Đi xa hơn, Roland Barthes đã áp dụng lý thuyết cấu trúc trong ký hiệu học để kiến giải thần thoại bằng một sơ đồ phát triển như sau:

Thần
thoại

(Mythology)

Ngôn
ngữ

(Language)
1. Cái biểu đạt
(Signifier)
2.Cái được biểu đạt
(Signified)

3. Ký hiệu (Sign)
I.CÁI BIỂU ĐẠT
(SIGNIFIER)

II.CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT
(SIGNIFIED)

III. KÝ HIỆU (SIGN)
Nguồn: Roland Barthes (Annette Lavers chuyển ngữ). Mythologies
Straus Farrar & Giroux. 1-1, 1972, tr.115
Với sơ đồ này, Roland Barthes đã phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu, cái biểu đạt  cái được biểu đạt ở một mức cao hơn. Theo đó, ký hiệu được hình thành từ cái biểu đạt  cái được biểu đạt ban đầu lại kết hợp với nhau bằng mô thức của CÁI BIỂU ĐẠT và CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT cao hơn tạo nên các KÝ HIỆU[3] mới. Đó cũng là mô thức mà ông dựa vào để phân tích cấu trúc của thần thoại. Hướng tiếp cận mở rộng này cũng được Jacques Derrida, Umberto Eco, Michel Foucault và nhiều nhà khoa học khác phát triển trong các nghiên cứu của họ. Từ đây, quan niệm về cái biểu đạt, cái được biểu đạt và ký hiệu đã vượt ra ngoài khuôn khổ của cấu trúc luận giai đoạn đầu để hình thành nên một trào lưu mới với tên gọi giải cấu trúc hay hậu cấu trúc luận.[4]
Trên đây chỉ là một vài nét tóm lược (qua một số ví dụ) về việc áp dụng cấu trúc luận trong ký hiệu học ngôn ngữ, còn trên thực tế, tầm mức ảnh hưởng của nó đối với các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn khác đã vượt xa những điều mà Ferdinand de Saussure dự đoán: “Lĩnh vực ký hiệu học rất rộng lớn, bắt đầu từ những nghiên cứu về hành vi giao tiếp của các loài động vật (ký hiệu học động vật-zoosemiotics) tới những phân tích về các hệ thống ký hiệu biểu tượng như giao tiếp thông qua điệu bộ cơ thể con người (kinesics  proxemics) các ký hiệu khứu giác (“sự mã hóa” của các mùi hương), lý thuyết mỹ học, và tu từ học. Hầu hết, các ranh giới của nó (nếu có) đều có sự giáp giới với những gì thuộc về cấu trúc luận: sự hấp dẫn của hai lĩnh vực này về cơ bản không tách rời nhau, và trong dài hạn, cả hai đều cần phải được đưa vào một lĩnh vực thứ ba phù hợp hơn, bao hàm nhiều lĩnh vực được gọi đơn giản là giao tiếp (communication). Trong bối cảnh đó, bản thân cấu trúc luận sẽ trở nên nổi bật như một phương pháp phân tích kết nối các lĩnh vực ngôn ngữ học, nhân học và ký hiệu học”(Terence Hawce 1977, tr.123).
 2. Khoa học nghiên cứu về biểu tượng
Biểu tượng là gì? khoa học nghiên cứu biểu tượng là gì? nghiên cứu biểu tượng nhằm mục đích gì? là những câu hỏi mà chúng tôi đặt ra để giải quyết trong chuyên mục này trước khi đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa cấu trúc luận với các khoa học nghiên cứu về biểu tượng.
Biểu tượng trong tiếng Việt là một từ gốc Hán được dùng khá trừu tượng. Theo Từ điển Tiếng Việt, biểu tượng có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là: “hình ảnh tượng trưng,” nghĩa thứ hai là: “hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt” (Hoàng Phê 1998, tr.26). Còn symbol trong tiếng Anh là một từ bắt nguồn từ ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy Lạp). Theo Từ điển Biểu tượng thì “những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó” (C.G.Liungman 1991, tr.25). Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng chúng ta có thể chia làm hai nghĩa chính là biểu hình và biểu ý. Trên thế giới, thuật ngữ symbology được nhiều từ điển giải thích với các ý nghĩa: là 1-Việc nghiên cứu hoặc sử dụng các biểu tượng  2-Tập hợp các biểu tượng (1: the study or use of symbols. 2: symbols collectively). Các từ điển nghệ thuật có thêm một ý nghĩa là: 3-Nghệ thuật sử dụng các biểu tượng để nhắc đến một trào lưu nghệ thuật thịnh hành ở châu Âu vào thế kỷ XIX. Như vậy, thuật ngữ symbology trong tiếng Anh tương đương với nghiên cứu biểu tượng (hoặc biểu tượng học) trong tiếng Việt.
Có thể thấy rằng, đối với khoa học nghiên cứu về biểu tượng, tiếp cận liên ngành (interdiciplinary) là một hướng đi bắt buộc, tuy nhiên, sự kết nối các lĩnh vựcngôn ngữ học, nhân học  ký hiệu học như Terence Hawkes đã đề cập ở trên cần phải được đặt làm nền tảng và là hướng đi phù hợp nhất trong giai đoạn hiện nay (chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần cuối của bài viết). Thực tế ở Việt Nam, cho tới nay, các chuyên ngành nghiên cứu biểu tượng như ký hiệu học hay nhân học biểu tượng vẫn chưa được công nhận như một bộ môn khoa học độc lập và cũng chưa có mã ngành đào tạo. Trong khi đã có khá nhiều trường đại học lớn trên thế giới như Columbia, Indiana, MIT (Massachusetts Institute of Technology), Standford, Hawaii ở Mỹ, Toronto, McGill, Western Ontario ở Canada, Tartu ở Estonia, Helsinki ở Phần Lan,v.v… tiếp cận theo hướng chuyên môn hoá.[5] Gần đây, Khoa Văn học, Đại học KHXH&NV- ĐHQG HN đã cho ra đời môn học mới là Nhập môn nghệ thuật; Khoa Nhân học, Đại học KHXH&NV- ĐHQG Tp.HCM với môn Nhân học nghệ thuật và Biểu tượngKhoa Văn hoá học, Đại học Văn hoá Hà Nội với môn Ký hiệu học văn hoá được coi như những bước đột phá trong việc tiếp cận lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu nghệ thuật và biểu tượng. Trong khi đó, các trường thuộc khối nghệ thuật thường chỉ tập trung vào các vấn đề có tính thực hành mà ít quan tâm đến các vấn đề lý thuyết và phương pháp luận. Đây là những bất cập lớn trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta cần được khắc phục.
Với câu hỏi chúng ta nghiên cứu biểu tượng nhằm mục đích gì? Câu trả lời đơn giản là để tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nhưng ý nghĩa của nó như thế nào, được sử dụng ra sao lại là những vấn đề không hề đơn giản vì mỗi biểu tượng đều có ý nghĩa riêng tuỳ thuộc vào thời gian và không gian của nó, nói cách khác, ý nghĩa của mỗi biểu tượng phụ thuộc vào nền văn hoá sản sinh ra nó, phụ thuộc vào bối cảnh và thời điểm mà nó ra đời, và tất nhiên, mục đích sử dụng của nó cũng thay đổi tuỳ thuộc vào các yếu tố trên. Để có thể minh họa cho các vấn đề đã nêu, dưới đây, chúng tôi xin lấy một ví dụ về vật biểu tượng và hành vi biểu tượng trong mộtnghi lễ biểu tượng diễn ra trong cùng một bối cảnh cụ thể để làm rõ hơn các khái niệm.
Trong chuyến điền dã dài ngày của chúng tôi (PGS.TS. Gabor Vargyas, Đại học Pecs, Hungary và tác giả bài này) ở khu vực cư trú của người Bru -Vân Kiều, tại nhà Chuôi Cươm (còn gọi là Pạ Thưq) ở xã Ea Hiu, Krông Pak, Đaklak. Ngày 2/5/2007, khi chúng tôi đến, ông đang bị ốm, và trận ốm cũng đã kéo dài nhiều tháng. Thế nhưng, câu chuyện mà gia đình ông trao đổi với chúng tôi không hề đề cập đến vấn đề bệnh tật mà lại xoay quanh nỗi lo về một lễ cúng đã trì hoãn nhiều năm do không có tiền tổ chức. Cũng như những năm trước, hôm đó là ngày ông phải “báo cáo” với Yang về hoàn cảnh bệnh tật và mức độ khó khăn của gia đình. Cùng với việc đó, ông sẽ phải tiếp tục xin phép Yang cho được “khất nợ” việc tổ chức lễ cúng trong năm nay. Lễ khất nợ của ông diễn ra đơn giản như sau: Từ bát cơm cúng, ông nối một sợi dây tới cây cột đóng bàn thờ. Sau đó ông khấn Yang với nội dung như đã từng làm với các lần trước đó (xin khất nợ). Khi chúng tôi hỏi bát cơm và sợi dây có ý nghĩa gì? Ông giải thích, bát cơm tượng trưng cho lễ cúng mà ông sẽ phải làm và sợi dây là sự xác nhận lời hứa của ông được thực hiện trước Yang. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy vật biểu tượng ở đây chính là bát cơm và sợi dây, còn hành vi biểu tượng chính là lời hứa và sự khất nợ. Các thành tố đó được diễn ra trong một nghi lễ biểu tượng (một lễ khất nợ đơn sơ thay cho một lễ cúng đầy đủ). Trở lại với câu hỏi nghiên cứu biểu tượng để làm gì? Theo Raymond Firth, đó là để “làm sáng tỏ ngôn ngữ biểu tượng (symbolical language) và hành vi biểu tượng (symbolical behaviour), liên kết chúng trong phạm vi của các hình mẫu xã hội và các giá trị xã hội”(Raymond Firth, 1973. tr.28).
Ở trên chúng ta đã có ví dụ minh hoạ về hành vi biểu tượng trong một nghi lễ biểu tượng. Vậy ngôn ngữ biểu tượng mà Raymond Firth đã đề cập là gì?
Trong Từ điển tiếng Việt thuật ngữ ngôn ngữ được giải nghĩa là: “Hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện diễn đạt, thông báo”- bên cạnh ý nghĩa được sử dụng cho ngôn ngữ học (Hoàng Phê 1998, tr.666). Trong Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, phần Lý thuyết kí hiệu ngôn ngữ định nghĩa: “Lý thuyết coi ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu và do đó, việc nghiên cứu ngôn ngữ phải đi từ sự xem xét các thuộc tính của các đơn vị và các mối quan hệ giữa chúng trên cơ sở bản chất kí hiệu của chúng.” Và theo Edmund Leach: “Đối với nhà nhân học, ngôn ngữ là một phần của văn hoá, chứ không phải là một đối tượng nghiên cứu tự thân. Hầu hết các vấn đề của nhà nhân học liên quan đến việc giao tiếp của con người. Ngôn ngữ là một phương tiện, nhưng những hành vi thông thường cũng là phương tiện giao tiếp”(Edmund Leach 2006, tr.217).
Trong khi ngôn ngữ nói  ngôn ngữ viết cho phép con người giao tiếp với nhau bằng khả năng tri nhận trực tiếp của các giác quan thì ngôn ngữ biểu tượng cho phép con người ở nhiều nền văn minh khác nhau, nhiều vùng văn hoá khác nhau, thậm chí ở nhiều thời gian và không gian khác nhau hiểu được nhau nhờ vào đặc tính căn bản của nó là thông tin và giao tiếp thông qua hệ thống kí hiệu hàm nghĩa của nó. Nhờ có ngôn ngữ biểu tượng mà con người có khả năng giao tiếp vượt thời gian và không gian để hiểu được con người sống ở các nền văn minh cổ xưa cách chúng ta hàng nghìn năm thông qua những di vật văn hoá mà họ để lại.[6] Trong xã hội hiện đại, ngôn ngữ biểu tượng giúp con người giao tiếp và hoà nhập với nhau mà không nhất thiết phải nói chung một thứ tiếng (chẳng hạn: ngôn ngữ máy tính, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ mật mã…). Có thể thấy, mối quan hệ giữa ký hiệu học với ngôn ngữ biểu tượng là một mối quan hệ đặc biệt: Các ký hiệu hình thành nên ngôn ngữ biểu tượng và ngôn ngữ biểu tượng lại chính là ngôn ngữ biểu đạt của các ký hiệu. Bằng mối quan hệ này, Claude Levi-Strauss, người được coi như “cha đẻ” của nhân học hiện đại, đã thiết lập nên lý thuyết vềnhân học cấu trúc (structural anthropology). Lý thuyết này không chỉ giúp giải quyết được nhiều vấn đề trong nghiên cứu ngôn ngữ, văn bản hay thần thoại mà còn cả trong các vấn đề có liên quan đến đời sống văn hoá và xã hội của loài người. Theo ông: “Mọi nền văn hoá có thể được xem như là một tổng thể các hệ thống biểu tượng mà ở hàng đầu là ngôn ngữ, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật khoa học, tôn giáo. Tất cả các hệ thống đó nhắm đến sự thể hiện một số mặt của thực tại thể xác và thực tại xã hội, và hơn thế nữa, thể hiện các quan hệ mà hai loại hình thực tại đó và bản thân các hệ thống biểu tượng có với nhau” (Levi-Strauss, 2011).
Tóm lại, ngôn ngữ biểu tượng là một thành tố văn hoá do con người tạo ra để sử dụng như một loại công cụ thông tin và giao tiếp có tính tượng trưng. Chúng ra đời, tồn tại và tác động đến đời sống văn hóa của con người. Vì vậy, việc tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng cũng chính là tìm hiểu đời sống văn hoá và xã hội loài người thông qua các biểu tượng văn hoá do họ tạo ra. Và do vậy, nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng giải mã các thành tố văn hoá được sản sinh trong đời sống của con người. Nền tảng của khoa học này có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với lý thuyết ký hiệu học.
3. Nghiên cứu biểu tượng từ góc nhìn ký hiệu học  
Nghiên cứu ý nghĩa của các biểu tượng, hay nói cách khác là tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng trong đời sống văn hoá của con người, cho tới nay không còn là một công việc mới mẻ trong nền khoa học thế giới. Nhưng ở nước ta, một hệ thống lý thuyết cần có (như nhiều chuyên ngành khác đã có) để các nhà khoa học tiếp cận với đối tượng nghiên cứu này vẫn còn là một vấn đề chưa ngã ngũ. Đây là một khoảng trống cần được khoả lấp bởi nếu không có cơ sở lý thuyết, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu thì không một ngành hay chuyên ngành khoa học nào có thể tồn tại và phát triển. Theo chúng tôi, để có thể đặt nền móng cho bộ môn nghiên cứu biểu tượng thì một nền tảng căn bản từ lý thuyết ký hiệu học sẽ giúp cho hệ thống lý thuyết nghiên cứu biểu tượng hình thành và phát triển một cách vững chắc hơn. Trong chuyên mục này, chúng tôi sẽ đưa ra một số khái niệm và mô hình mà các nhà khoa học đã thực hiện dưới góc nhìn ký hiệu học, để từ đó chúng ta có thể đi xa hơn trong việc sử dụng cấu trúc luận trong khoa học nghiên cứu biểu tượng.
Trong chú thích đầu tiên của nghiên cứu này, chúng tôi đã đề cập đến tên tuổi của một nhà khoa học lớn cùng thời với Ferdinand de Saussure trong vai trò sáng lập chuyên ngành ký hiệu học, đó là Charles Sander Peirce. Điểm tương đồng trong lý thuyết của họ là sử dụng cấu trúc luận, còn sự khác biệt là ở phương pháp tiếp cận: Phương pháp tiếp cận của Saussure là ngôn ngữ học và với Peirce đó là logic học theo hướng tiếp cận đa ngành. Đóng góp về mặt lý thuyết của Peirce đối với khoa học (cả tự nhiên và xã hội) vô cùng lớn, nổi bật trong đó là triết học dụng hành(pragmatism),[7]tương tác biểu tượng (symbolic interactionism)… Tuy nhiên, trong nội dung mục này chúng tôi chỉ đề cập đến các vấn đề có liên quan đến ký hiệu học và cấu trúc luận.
Mô hình cấu trúc trong lý thuyết của Peirce là một tương tác giao tiếp phi ngôn ngữ để tìm hiểu ký hiệu của các quá trình liên tưởng. Ông sử dụng thuật ngữ ký hiệu học theo quan điểm của logic học, theo đó, ký hiệu học được sắp xếp bởi mộtcấu trúc tam vị (triadic structure) mà qua đó các thành tố luôn có sự ảnh hưởng tương tác lẫn nhau. Từ ký hiệu này sẽ sản sinh ra ký hiệu khác thông qua việc diễn giải ký hiệu trước đó. Một ký hiệu hoặc đại diện của nó chính là “một cái gì đó đại diện cho ai đó bằng một cái gì khác trong các quan hệ hoặc khả năng nào đó… Vì vậy một ký hiệu đại diện cho một cái gì đó (đối tượng của nó); thay thế một cái gì đó của một ai đó (sự biểu thị của nó); và cuối cùng thay thế một cái gì đó cho một ai đó trong một vài phương diện (các phương diện này được gọi là nền móng). Những khía cạnh đó, sự đại diện (representamen), đối tượng (object), sự biểu thị (interpretant) và nền móng (ground) do vậy có thể được xem như để đề cập đến các ý nghĩa mà các ký hiệu đã biểu thị thông qua chúng; mối quan hệ giữa chúng quyết định nghiêm ngặt tiến trình căn bản của ký hiệu học.” (Terence Hawkes 1977, tr. 126-127).
Xem phần diễn giải trên đây chúng ta có cảm giác là các thuật ngữ, các đối tượng, và các mối quan hệ của chúng khá phức tạp, thậm chí là rắc rối. Tuy nhiên, với mô hình dưới đây chúng ta có thể dễ dàng hình dung được các thành tố mà Peirce đã đưa ra trong lý thuyết ký hiệu học của mình. Từ mô hình đơn giản này, Peirce đã phát triển thêm nhiều mô hình khác bằng tư duy logic để giải quyết nhiều vấn đề bao gồm cả khoa học tự nhiên (như logic học, toán học, thống kê học,…) và khoa học xã hội (như triết học, xã hội học, tâm lý học,…). Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một cấu trúc đơn giản nhất của ông để chứng minh cho hiệu quả của cấu trúc luận với khoa học nghiên cứu biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học và sẽ không đưa thêm các ví dụ phức tạp hơn trong các nghiên cứu mà Peirce đã công bố.
                                          
                    Mô hình tam vị (triadic relation) của Peirce
Trở lại với mối quan hệ giữa ngôn ngữ học, ký hiệu học  nhân học mà Terence Hawkes đã đặt ra. Có thể dễ dàng nhận thấy cả ba chuyên ngành này đều nằm trong một khoa học tổng thể về con người và văn hoá. Charles Sander Peirce đã từng đặt câu hỏi: “Con người là gì? con người phải chăng là một ký hiệu?” Và câu trả lời đã được một nhà ký hiệu học nổi tiếng khác người Italia là Umberto Eco trả lời: Con người là một động vật có tín ngưỡng; con người luôn mang trên mình hai tín hiệu gắn với cái xấu và cái đẹp; con người là một cỗ máy sản xuất tín hiệu khổng lồ… Bởi vậy, lý thuyết “tín hiệu vô hạn định” của Charles Sander Peirce, qua Eco đã trở thành “chuỗi tín hiệu vô hạn định, gắn chặt với bối cảnh văn hoá của đời sống xã hội loài người” (Huyền Sâm-Ngọc Anh 2009). Chuỗi tín hiệu đó được Umberto Eco mô hình hoá như sau:
(Source) Sender: (Nguồn) Người gửi thông tin
Code: Mã      Subcode: Mã nhánh
Message emitted as signifier bearing a signified:Thông tin đưa ra là cái biểu đạt chứa đựng cái được biểu đạt
Chanel: Kênh thông tin/đường dẫn Addressee: Người nhận
Message received as signifier: Thông tin nhận được là cái biểu đạt
Message received as signified: Thông tin nhận được là cái được biểu đạt
(Nguồn: Umberto Eco, Apocalypse Postponed, 1994)
Trong mô hình cấu trúc của Eco, thông tin từ người gửi sẽ được mã hoá qua một số bước trước khi trở thành một loại thông tin mới (chúng tôi tạm gọi là thông tin cấp 2 – viết tắt là T2). T2 là cái biểu đạt nhưng chứa đựng cái được biểu đạt. T2 thông qua các kênh truyền dẫn được biến thành một loại thông tin mới khác (T3) được tiếp nhận như cái biểu đạt mới. Từ đây nó lại trải qua các bước mã hoá để đến vớingười nhận trong vai trò là cái được biểu đạt mới hơn. Quá trình ký hiệu được mã hoá để tạo thành thông tin như trên có thể được diễn ra nhiều lần, không có giới hạn. Có thể tóm tắt quá trình này là một sự mã hoá ký hiệu tạo thông tin với sơ đồ sau:
Ký hiệu + Mã hoá = TÍN HIỆU THÔNG TIN
Việc ứng dụng sơ đồ này trong thực tiễn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống của con người: Từ tín hiệu Morse (do Samuel F. B. Morse phát minh năm 1938) và ngôn ngữ ký hiệu dùng cho người câm điếc đến công nghệ số (digital technology) với việc mã hoá hai con số và 1 thành các ký hiệu thông tin đã tạo nên một trong những cuộc cách mạng khoa học công nghệ lớn nhất trong lịch sử nhân loại với phạm vi ảnh hưởng ở mức độ toàn cầu. Đây chính là cuộc cách mạng đã đưa con người đến một thế giới hoàn toàn mới: Thế giới phẳng[8] – một thế giới của ký hiệu số.
Vẫn là những lý thuyết cấu trúc dựa trên cơ sở ký hiệu học nhưng cách tiếp cận của Michel Foucault lại đưa đến cho người đọc những trải nghiệm hết sức khác biệt.Đó là “một Foucault dám nghĩ khác, nghĩ rộng, thậm chí nghĩ đến tất cả. Có một năng lượng Foucault mạnh mẽ trong suy tư, những khám phá, những gợi ý mang ý nghĩa to lớn cho bất kỳ con người hiện đại nào muốn suy nghĩ về lịch sử, triết học, y học và kiến thức.”(Cao Việt Dũng 2009)[9]. Quả thực, trong cuốn: Sự sắp đặt của sự vật: Một nghiên cứu khảo cổ học về các khoa học nhân văn,[10] Foucault đã dẫn chúng ta đi qua hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác mà nội dung của bài viết ngắn này không đủ để diễn tả. Từ cách tiếp cận liên ngành rộng lớn nhưng lại hết sức chặt chẽ đến việc sử dụng các thuật ngữ hết sức độc đáo để diễn tả các vấn đề xã hội. Phương pháp tiếp cập của Foucault về cơ bản vẫn là dựa trên nền tảng cấu trúc luận và cơ sở ký hiệu học nhưng các đối tượng mà ông đề cập, các phân tích, tìm tòi,… đã vượt ra ngoài phạm vi của cấu trúc luận và ký hiệu học. Chính vì lý do này mà giới khoa học đã gọi Foucault là một trong những nhà giải cấu trúc/hậu cấu trúc luận xuất sắc nhất. Dưới đây là một mô hình cấu trúc trong cuốn sách nói trên của Foucault: 
General science of order:
Nền tảng khoa học của sự sắp đặt
Simple natures: Các yếu tố tự nhiên căn bản
Mathesis: Thuật toán   
Algebra: Biểu thức đại số
Complex representations:
Tập hợp các đại diện
Taxinomia: Hình mẫu ký hiệu biểu thị
Signs: Ký hiệu
(Nguồn: Michel Foucault, The Order of Things: An archaeology of the human sciences, Routledge 2002,London &New York, tr. 80)
Ở mô hình này, các thành tố vừa có sự tương tác lẫn nhau lại vừa được phân loại một cách rõ ràng. Sự tương tác có thể nhận ra giữa các yếu tố tự nhiên căn bản và tập hợp các đại diện; giữa ngôn ngữ biểu thức đại số và ngôn ngữ ký hiệu; giữa các tiền tố và hậu tố qua các yếu tố trung gian. Còn sự phân loại ở đây có thể được nhận ra dưới góc nhìn cấu trúc: Theo chiều ngang, hàng thứ nhất là các tiền tố cơ sở, hàng thứ hai là các ngôn ngữ biểu đạt/kênh thông tin…, hàng thứ ba là thông tin được đưa ra. Theo chiều dọc, chúng ta nhận thấy cột thứ nhất đề cập đến các thuật ngữ trong khoa học tự nhiên hoặc có liên quan đến tự nhiên. Cột thứ hai đề cập đến các yếu tố mang tính xã hội (ngôn ngữ, ký hiệu hay sự biểu đạt). Đây là một mô hình trọng tâm trong công trình nghiên cứu của Foucault nên nó xuyên suốt toàn bộ nội dung tác phẩm mà chúng ta có thể gọi một cách ví von cột thứ 1 cột thứ 2 là Vật (1) và Từ (2) như tên gọi của cuốn sách (bản tiếng Pháp).
Vượt ra ngoài các khái niệm và các mô hình mang tính lý thuyết, ký hiệu học được áp dụng trong thực tiễn của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau trong đời sống của con người, chẳng hạn như phân tích cấu trúc của các sản phẩm nghệ thuật… Điều này cũng cho thấy lý do tại sao các nghiên cứu về nghệ thuật và biểu tượng thường có mối liên hệ chặt chẽ với ký hiệu học. Dưới đây, chúng tôi xin được nêu một ví dụ trong các ứng dụng này. Bằng mô hình hệ thống ký hiệu học hàm nghĩa của Roland Barthes, Nguyễn Văn Hậu đã đưa ra một mô hình chuyển đổi để phân tích cấu trúc của ngôn ngữ biểu tượng như sau:
Ở đây, cái biểu đạt được “chuyển ngữ” thành hình thứccái được biểu đạt thành nội dung. Đây cũng là hai thành phần giúp hình thành nên mọi tác phẩm nghệ thuật. Và ký hiệu ở “cấp cao hơn” được gọi là siêu ký hiệu, đó chính là ngôn ngữ biểu tượng. Từ ứng dụng này, theo quan điểm ký hiệu học, ông đã đi đến một nhận định về văn hoá dưới góc nhìn ký hiệu học như sau: Văn hoá là một tập hợp các hệ thống kí hiệu phụ thuộc vào những quy luật mang tính cấu trúc nhất định. Theo đó, văn hoá chính là tập hợp của hệ thống các biểu tượng và biểu tượng là “đơn vị cơ bản” của văn hoá (Nguyễn Văn Hậu, 2010).
Tới đây, chúng ta có thể đi đến một lời tạm kết rằng, ký hiệu học là bộ môn khoa học đóng vai trò nền tảng cho khoa học nghiên cứu về biểu tượng. Phương pháp tiếp cận rõ ràng, khúc chiết của ký hiệu học giúp cho các nhà khoa học có thể tránh được những “đặc tính khó lường” của biểu tượng – đó là tính trừu tượng và đa nghĩa. Bên cạnh đó, góc độ tiếp cận rộng lớn của ký hiệu học (từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội) giúp cho ký hiệu học có thể giải quyết nhiều vấn đề mà khoa học đơn ngành không thể giải quyết. Chẳng hạn, chúng ta không thể đưa các phương pháp của đại số, lượng giác, đạo hàm,… trong toán học vào phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đưa ngôn ngữ thuật toán (như Foucault đã đưa) vào trong nội dung bản văn, hơn thế, chúng ta còn có thể sử dụng ký hiệu toán học để lập nên các mô hình cấu trúc (như Foucault và Peirce đã làm) để giải mã các thành tố văn hoá có tính biểu tượng trong khoa học xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp cận nghiên cứu các biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học thì chúng ta vẫn có thể gặp khó khăn khi buộc phải giải nghĩa một thành tố văn hoá trong môi trường sống của nó (nghĩa là trong thời gian và không gian của riêng nó). Vấn đề này dường như có thể được giải quyết với lợi thế của phương pháp tiếp cận nhân học.
CHÚ THÍCH
[1] Ferdinand de Saussure được coi như “cha đẻ”của cấu trúc luận trong ngôn ngữ học trên cơ sở của ký hiệu học ngôn ngữ, tuy nhiên, ý tưởng về ký hiệu học đã được nhà triết học người Anh là John Locke đưa ra từ thế kỷ XVII. Và ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhà logic toán học triết học người Mỹ Charles Sander Peirce cũng đã thiết lập nên một hệ thống lý thuyết ký hiệu học được sử dụng rộng hơn trong khoa học liên ngành (Peirce được coi như cùng thế hệ với Sausure nhưng nhiều hơn 18 tuổi). Vì vậy mà khi nói đến ký hiệu học thì cả Saussure và Peirce đều được xem như những nhà sáng lập.
[2] Dịch từ Terence Hawces 1973, tr.125-126.
[3] Các chữ viết hoa ở đây là cách dùng của Roland Barthes nhằm nhấn mạnh và làm rõ hơn các khái niệm mà ông đưa ra nên chúng tôi xin được giữ nguyên.
[4] Tên gọi của trường phái này cũng đang là một đề tài gây tranh luận. Xin xem thêm các nghiên cứu của Nguyễn Văn Dân, Phương Lựu,… đã xuất bản trong thời gian qua.
[5] Năm 2009, sau khi tác giả Dan Brown cho ra đời cuốn sách thứ 2 “The lost symbol” (Biểu tượng đã mất) sau thành công vang dội của “The Davinci code” (Mật mã Davinci), tại Đại học Harvard đã diễn ra cuộc tranh luận là có nên thành lậpDepartment of Symbology không? Câu trả lời cuối cùng của bộ phận quản trị hành chính của trường là không, bởi vì tại Đại học Harvard đã có các phân ngành liên quan như “religious iconography” (nghiên cứu thánh tượng tôn giáo) “cryptography” (mật mã học) và lịch sử nghệ thuật. Xem thêm bài viết trên blog của The New Yorker (Tạp chí Người New York) ngày 15/9/2009: http://www.newyorker.com
[6] Chẳng hạn, bộ môn Nghiên cứu chữ  tượng  hình (hieroglyph) đã giúp các nhà khoa học dịch được rất nhiều văn bản tượng hình cổ của người Ai Cập cách ngày nay 3-8000 năm.
[7] Trào lưu lý thuyết này hình thành từ một nhóm học giả tại Đại học Harvard từ cuối thế kỷ XIX do Charles Sander Peirce và William James đứng đầu cùng John Dewey và George Santayana. Ảnh hưởng của nó lớn tới mức đã định hình nên một lối sống Mỹ, một phong cách Mỹ và một văn hoá Mỹ không giống bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Một số tài liệu khác dịch thuật ngữ pragmatism thành chủ nghĩa thực dụng hoặc thực dụng luận. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cách dùng này dễ bị hiểu theo hướng tiêu cực nên sẽ sử dụng thuật ngữ này là triết học dụng hành mà một số nhà khoa học đi trước đã sử dụng.
[8] Thuật ngữ của Thomas Friedman trong cuốn sách nổi tiếng của ông: The world is Flat. Cuốn sách này đã được nhóm tác giả Nguyễn Quang A, Cao Việt Dũng, và Nguyễn Tiên Phong dịch. Có thể download miễn phí cuốn sách tại trang:http://www.esnips.com
[9] Cao Việt Dũng, Mô hình phát triển của kiến thức theo Michel Foucault, Tạp chí Tia sáng, trích lại theo nguồn: http://vn.360plus.yahoo.com/hoangnguuson/article?mid=260&fid=-1
[10] Đây là một trường hợp khá đặc biệt trong số rất ít những cuốn sách nghiên cứu được báo Le Monde bình chọn (1999) là 100 cuốn sách hay nhất thế kỷ XX. Tên sách dịch từ bản tiếng Anh: The order of Things: An archaeology of the human sciences. Bản tiếng Pháp: Les Mots et les ChosesUne archéologie des sciences humaines, được dịch là: Từ và Vật: Một khảo cổ học về các khoa học nhân văn (Cao Việt Dũng). Lý do về sự thay đổi tên gọi này đã được giải thích trong lời giới thiệu của bản tiếng Anh nên chúng tôi không nêu ở đây.
Bản tác giả gửi Lyluanvanhoc.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét