Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

LƯỢC SỬ ÁO DÀI


 Trần Quang Đức




Từ lâu, Áo Dài được coi là biểu tượng của văn hóa, vẻ đẹp Việt, một vẻ đẹp vừa thực dụng vừa mơ màng, vừa như muốn giấu kín, nhưng cũng vừa như muốn phô ra tất cả đường cong cơ thể. Đã có không ít nhà văn, nhà thơ, dùng xiết bao lời hay ý đẹp ca tụng Áo Dài, như thể chiếc áo mang trong mình cả ngàn năm lịch sử, chứa đựng cả một bề dày văn hóa mà bất kỳ người Việt Nam nào cũng cảm thấy tự hào mỗi khi nhắc đến. 
Tuy nhiên, lịch sử của Áo Dài không dài như người ta hằng tưởng. Năm 1744 là thời điểm kiểu áo cổ đứng cài khuy ra đời. Đây là một cuộc cải cách quan trọng, xuất phát từ tâm lý độc lập của chúa Nguyễn Phúc Khoát, nhằm phân biệt lãnh thổ, chính trị, văn hóa giữa Đàng Trong của ông với Đàng Ngoài của vua Lê chúa Trịnh. Trước năm 1744, người Đàng Trong cũng như người Đàng Ngoài, họ đều chia sẻ với nhau những thói quen ăn mặc, đều để tóc dài buông xõa và khoác lên mình chiếc áo giao lĩnh có cổ áo đan chéo trước ngực tương tự những chiếc kimono. Năm 1744, lần đầu tiên, chúa Nguyễn Phúc Khoát quy định toàn bộ người dân Huế và các vùng đất phía Nam nằm trong sự cai trị - cát cứ của ông phải mặc kiểu áo mới: cổ đứng, cài khuy về bên phải, kết hợp với chiếc quần hai ống, được gợi ý từ kiểu áo của người Trung Hoa. Người ta gọi chúng là Quần chân Áo chít. Kiểu tóc lúc này cũng không còn buông xõa như trước đây, mà thay vào đó, người ta búi chúng lại, rồi dùng vải che tóc, quấn quanh đầu. 

Những năm 1820 – 1830, thời vua Minh Mạng triều Nguyễn trị vì, Quần chân Áo chít được phổ biến toàn quốc, kèm theo loạt lệnh cấm đoán những dạng trang phục cũ của người dân Bắc kỳ. “Tháng 8 có chiếu vua ra, cấm quần không đáy người ta hãi hùng …” Câu ca dao được lưu lại trong trí nhớ dân gian đã gián tiếp phản ánh thời kỳ phổ biến kiểu dáng Áo Dài cài khuy này. Không ít trí thức trung thành với nhà Lê cũng như nhiều phụ nữ nghèo đã bất chấp những lệnh cấm và lệnh áp đặt trang phục của vua Minh Mạng. Để rồi cuối cùng, một số kiểu trang phục cũ của người Bắc kỳ như áo Tứ thân – váy đụp vẫn được lưu giữ bền chắc, song song với sự phổ biến của kiểu áo mới. Kiểu Áo Dài bấy giờ hẹp tay, vạt buông quá gối, không ôm người, không mang lại bất kỳ cảm giác khêu gợi hay kích thích từ vẻ đẹp của hình thể đàn bà. 

Đầu thế kỷ XX, dưới bàn tay của các họa sĩ như Cát Tường, Lê Phổ, Quân chần Áo chít dần được cách tân. Kiểu áo của nữ giới dần ôm sát, chạy dọc theo đường cong cơ thể. Sự thanh thoát, khêu gợi của nó càng trở nên nổi bật, khi người ta sử dụng những chất liệu mềm nhẹ, mỏng mảnh để may áo. Chiếc quần hai ống mặc kèm trước đây màu đen, nâu hoặc đỏ, tía; giờ đây, theo phong trào Âu hóa, đã chuyển sang màu trắng, được phổ biến rộng rãi vào khoảng những năm 1920. Sau sự ra đời của những dạng áo dài cách tân như Áo Dài cổ thuyền (không cổ) vào năm 1961, qua những cuộc trình diễn Áo Dài diễn ra trong Nam ngoài Bắc, một loạt các dạng áo mới ra đời mà mẫu số chung chỉ còn lại hai vạt xẻ dài kéo lên quá eo. 

Áo Dài thời Nguyễn, đặc biệt là những chiếc áo trong cung, được thêu, dệt cầu kỳ, với những đường may tinh tế, toát lên vẻ đẹp sang trọng, thâm trầm vốn có của người phương Đông, dường cuốn hút tôi hơn nhiều, so với những kiểu dáng tân thời, mà trong đó có những dạng thiết kế lai căng quá mức. Dù rằng, lịch sử của Áo Dài không so được với kiểu áo Giao lĩnh, Tứ thân, song nó cũng đã mang trong mình cả một câu chuyện dài ngót 300 năm; và cũng đã làm tốn giấy mực của biết bao thế hệ văn nhân Việt Nam. 

Kiểu Áo Dài chúng ta thường thấy hiện nay, hòa lẫn những nét kín đáo, trầm mặc với vẻ khêu gợi, mượt mà, ấn chứng sự ảnh hưởng của văn hóa Pháp vào đời sống Việt Nam truyền thống. Trong khi người Việt Nam hiện đại một mực ca ngợi chiếc áo tân thời, họ đã vô tình lãng quên quá khứ, quên đi kiểu áo trước khi có sự pha trộn màu sắc phương Tây. Và cũng chẳng mấy ai đặt may, mặc lại kiểu dáng áo cổ truyền. 
Triển lãm Áo Dài của Thái Kim Lan và Veronika Witte, bởi vậy trở nên đáng quý vô cùng. Đây là một trong những cơ hội hiếm có, để chính người Việt hiện đại có dịp ngoảnh lại, chiêm ngưỡng những nét đẹp cổ kính của Áo Dài trong quá khứ, có dịp được phản tư thẩm mỹ, quan điểm của mình đối với chiếc Áo Dài, lâu nay vẫn vận trên người

Nguồn https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10152620164506526&set=a.459074711525.248247.705311525&type=3&theater

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

Bài thu hoạch sau khi đi Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam

Bài của Kim Han Na sinh viên Đại học Chungwoon ( Hàn Quốc) học Lịch sử Việt Nam tại Hà Nội

2011.11.30 


Trong học kỳ 2, em đã học lịch sử Việt Nam được khoảng 2 tháng. Ngày 10 tháng 11 năm 2011 em đã đi thăm quan Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Việt Nam là một đất nước nằm ở vị trí thuận lợi vì bao quanh là biển và tiếp giáp với nhiều nước như Trung Quốc, Căm-pu-chia v.v. Vì thế, Việt Nam là một đất nước không những đã từng bị nhiều nước khác thống trị như Trung Quốc, Pháp v.v. mà còn có nhiều người dân đứng dậy khởi nghĩa để giành lại độc lập. Bảo tàng lịch sử Quân sự đã trưng bày tư liệu và hiện vật về chiến tranh. Chiến tranh là một tội ác; nó khiến con người trở nên hung bạo và tàn ác hơn, nhiều khi dễ dàng giết người và trả thù hơn. Vì thế, em không muốn hiểu biết những thông tin liên quan đến chiến tranh như các hình ảnh giết người, hình ảnh chết chóc trong bảo tàng lịch sử quân sự. Ở Hàn Quốc bảo tàng lịch sử Quân sự trưng bày nhiều hiện vật và tư liệu về chiến tranh như các hình ảnh có người bị cắt cổ hoặc bị giết; hay các mô hình tra tấn, giết người với âm thanh quá sống động. Hồi em còn nhỏ, em đã đến đó một lần và hoàn toàn bị sốc trước cảnh tra tấn đó đến mức em chạy ra ngoài khóc ngay lập tức. Sau đó, em đã quyết định không bao giờ đi Bảo tàng lịch sử Quân sự nữa. Lần này, khi em đến Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam thì em không muốn bước vào vì em tưởng là trong bảo tàng có nhiều tài liệu về các tội ác trong chiến tranh giống như bảo tàng lịch sử quân Sự Hàn Quốc, chẳng hạn như hình ảnh Việt Cộng bị tàn sát da mãn, hình ảnh người dân Việt Nam bị giết. Nhưng thực tế là trong Bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam không trưng bày nhiều hình ảnh dã man trong chiến tranh mà chủ yếu trưng bày  các loại vũ khí, các chiến lược chiến tranh của người Việt và hình ảnh những con người anh hùng ở Việt Nam. Điều đó khiến em có cảm nhận hoàn toàn khác so với lần em đi thăm bảo tàng lịch sử quân sự ở Hàn Quốc. Vì thế, em càng cảm nhận được tinh thần chiến đấu kiên cường và bất khuất của người Việt Nam.
Sau khi em xem các tư liệu ở bảo tàng, em suy nghĩ, chiến tranh thể hiện trí tuệ của người Việt Nam. Trong bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam có nhiều tò nhà trưng bày các hiện vật khác nhau. Nhưng trong buổi sáng, chúng ta chỉ có thể đi thăm được hai toà nhà.
Trong tòa nhà đầu tiên có trưng bày các tư liệu về chiến lược và lời dẫn của các vị anh hùng trong thời kỳ bắc thuộc. Ở đó, em có ấn tượng sâu sắc với 2 phần. Thứ nhất là lời nói của vua Quang Trung “Đánh cho để dài tóc, Đánh cho đđen răng, Đánh cho nó chích luân bất phản, Đánh cho no phe giáp bất hoàn, Đánh cho sử tri nam quốc, Anh hung chi hữu chủ”. Sau khi cô Chi giải thích lời nói này của Quang Trung có nghĩa là nước Nam phải chống lại quân giăc để giữ gìn phong tục của mình. Sau khi hiểu được câu nói này, em cảm thấy người Việt Nam coi trọng phong tục của họ nên phải luôn đấu tranh giữ gìn đất nước của họ.
Thứ hai là chiến lược của người Việt Nam. Chiến lược này được gắn với chiến tranh chống lại đế quốc Mỹ khi quân Mỹ đánh bằng con dao gắn ở đầu súng. Em ấn tượng vì cô miêu tả rất hay và em nghĩ rằng chiến lược đó là trí tuệ của người Việt Nam. Khi quân Mỹ đánh người Việt bằng con dao gắn ở đầu súng thì người Việt Nam ôm quân Mỹ để quân Mỹ không thể đánh người Việt được vì nó rất dài. Sau khi em nghe cô nói, em nghĩ rằng không một dân tộc nào, không một đế quốc nào có thể chiến thắng được người Việt Nam.
Từ tầng một lên tầng hai, có tài liệu về trận chiến Điên Biện Phủ. Ở Hàn Quốc, em đã học về trận chiến Điện Biên Phủ nhưng chưa bao giờ xem tận mắt tài liệu về quá trình chiến tranh đó. Ở đây, có trưng bày mô hình trận chiến Điện Biên Phủ, đồng thời cũng chiếu bộ phim tài liệu về trận chiến này. Trong bộ phim đó, quân Pháp vừa có nhiều vũ khí mạnh vừa có nhiều lực lượng quân đội mạnh còn quân Việt trông rất yếu vì không có nhiều vũ khí mới nên phải vượt núi băng rừng để làm vận chuyển lương thực và vũ khí lên Điện Biên để đánh Pháp. Em tự hỏi là “Tại sao quân Pháp không thể chiến thắng quân Việt mặc dù quân Pháp có nhiều vũ khí mới và tốt hơn quân Việt?” Trong bộ phim đó, người Việt Nam trông nhỏ, không có vũ khí tốt và mới nhưng em cảm thấy người Việt mạnh mẽ. Bởi vì người Việt đào núi và làm đường dùng địa hình của người Việt để tấn công quân Pháp và chuyển mang vũ khí nặng như xe tăng, súng, đạn. Theo em, người Việt có thể mang chuyển vũ khí vì có nhiều người yêu nước muốn giành lại độc lập.
Trong tòa nhà thứ hai có nhiều tài liệu về chiến tranh Mỹ. Ở đó, em ấn tượng nhất là mô hình của địa đạo Củ Chi. Địa đạo Củ Chi là một hệ thố phòng thủ trong lòng đất ở miền Nam. Em nghĩ rằng địa đạo đó giống như một tổ kiến. Địa đạo có nhiều không gian như phòng hội tác chiến và phòng sinh hoạt v.v. Em bất ngờ là người sống ở dưới đất thì làm sao mà thở được, làm thế nào mà đi lại được và cửa vào ra ở đâu.. Em quan sát thì cửa vào ra được che khó tìm. Qua đó em mới hiểu vì sao người Việt có thể giành lại độc lập mặc dù Pháp và Mỹ là những nước mạnh và quân đội Pháp và Mỹ là hai quân đội được trang bị nhiều vũ khí tốt nhất. Đó chính là vi người Việt hiểu địa lý của Việt Nam và dùng những thuận lợi về địa lý để đấu tranh và giành lại độc lập.
Hàn Quốc cũng là một đất nước đã từng bị nước khác thống trị. Tuy nhiên, em nghĩ rằng Hàn Quốc không cố gắng giành lại độc lập như Việt Nam. Ngày xưa, Hàn Quốc đã từng cố gắng giành lại độc lập nhưng lúc nào Hàn Quốc cũng đứng lên nhờ sự giúp đỡ của các nước khác. Hàn Quốc cũng độc lập năm 1945 như Việt Nam vì chiến tranh thứ hai kết thúc năm 1945 nhưng Hàn Quốc không giống như Việt Nam là sau khi Việt Nam độc lập, Việt Nam lại có chiến tranh với nhiều nước nhưng Hàn Quốc không có ngoại chiến mà chỉ có nội chiến với Bắc triều tiên. Khi Hàn Quốc chiến tranh với Bắc triều tiên thì Hàn Quốc nhờ Mỹ giúp đỡ. Còn Việt Nam tự giành lại được độc lập. Lịch sử chiến tranh của Việt Nam thực sự hấp dẫn và thu hút các sinh viên học Việt Nam học như em.

Description: 2011-11-10 09.12.34.jpgDescription: 2011-11-10 09.33.05.jpg

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Nghiên cứu làng ven đô Hà Nội theo định hướng khu vực học ( Trường hợp làng Kim Lũ.)


 Nguyễn Thị Huyền Vân

1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Phương pháp tiếp cận và các nguồn tư liệu
4. Nội dung chính ( Bố cục)


Phần I
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH LÀNG KIM LŨ

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1.        Vị trí địa lý
Xã Kim Lũ xưa hiện nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, nằm ở phía Tây Nam thành phố, phía Đông Bắc của huyện Thanh Trì; phía Đông có sông Tô Lịch, phía Bắc giáp làng Hạ Đình, phía Nam giáp làng Quang Liệt (xã Thanh Liệt), phía Tây giáp thôn Triều Khúc (xã Tân Triều). Xã Kim Lũ cách không xa kinh thành Thăng Long chỉ khoảng 6 km theo đường chim bay về phía Tây Nam. Về mặt phong thủy, theo quan niệm của người xưa, vùng đất này được cho là có thế “cận Đế vương” (gần với vua, chúa), được đánh giá là tối linh hình kim quy có long chầu hổ phục, là vùng đất địa linh tú khí, nhân hòa vật thịnh. Phía Bắc - Đông Bắc có núi Nùng, núi Sưa làm hậu chẩm. Phía Nam có Đọi Sơn làm tiền án, Nhuệ giang làm minh đường. Phía Đông cận kề có sông Tô là Tả thanh long. Phía Tây có Ba Vì là Hữu bạch hổ. Đây được đánh giá là phúc địa, nên từ rất xa xưa đã có nhiều dòng họ tìm đến khai phá sinh tụ tạo nên làng.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Về mặt địa hình, làng tương đối bằng phẳng với độ dốc từ 0­­­o - 3o, độ cao trung bình so với mặt nước biển khoảng 2,5m. Về mặt thổ nhưỡng, đất làng là đất phù sa cũ được hình thành do các lòng sông cổ bồi đắp dần, nên còn có những chỗ trũng sâu tạo thành hồ, ao. Thành phần vật chất bao gồm sét bùn lẫn mùn thực vật, phù hợp cho phát nông nghiệp như trồng rau, hoa màu, cây thực phẩm và lúa 2 vụ. Làng cũng có một dải đất ven bờ sông Tô Lịch, bề ngang rộng khoảng vài chục mét, chạy dài từ đầu làng đến cuối làng, dải đất này thường được người dân tận dụng trồng thêm rau muống cung cấp cho nội đô.
Kim Lũ là một làng nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, điều kiện khí hậu mang đặc trưng của khí hậu vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, đó là khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, có mùa đông lạnh. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 và mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9. Hướng gió thống trị là hướng Đông Nam và Đông Bắc, tốc độ gió cực đại là 20 - 25 m/s trong mùa mưa. Tuy nhiên, ở đồng bằng châu thổ sông Hồng không có mùa khô tuyệt đối vì độ ẩm quanh năm luôn cao trên 80%, lượng mưa trung bình năm khoảng 1.500mm, cao hơn nhiều so với ngưỡng phân chia phân chia vùng khô và vùng ẩm là 500mm. Tại Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn (Láng), các số liệu quan sát trung bình theo năm như sau: nhiệt độ 23,5o­C, lượng mưa 1674,4 mm, độ ẩm 84%, số giờ nắng trong ngày 4,0; số ngày mưa phùn trong năm tại Hà Nội là 42,7 ngày. Hiện tượng thời tiết này tập trung nhiều nhất vào tháng 3 (14.5 ngày). Số ngày sương mù trong năm là 11,7 ngày, xuất hiện nhiều nhất vào tháng 12 (2,6 ngày)[52, tr.57].
Làng Kim Lũ nằm sát bên bờ sông Tô Lịch. Sông Tô chạy dọc theo làng từ Nam đến Bắc là ranh giới tự nhiên phía Đông phân chia làng Kim Lũ với làng Định Công, làng Đại Từ. Đây là nguồn cung cấp nước canh tác chính qua hệ thống kênh mương, vì vậy nó có vai trò rất quan trọng đối với đời sống sản xuất của người dân. Đoạn sông qua làng dài khoảng 1500m, người dân xây dựng các con mương dẫn nước từ sông chạy vào cấc cánh đồng, phục vụ việc tưới tiêu nông nghiệp cho cả làng. Không chỉ vậy trên mặt nước còn được người dân thả rau muống, rau rút. Đây cũng là nơi nhận nước thải sinh hoạt của làng và các khu dân cư xung quanh. Vì vậy, đến nay dòng sông này đang bị ôi nhiễm nặng nề.
Ngoài sông Tô Lịch do địa hình không bằng phẳng có chỗ trùng sâu nên làng có hệ thống hồ ao đầm chằng chịt.
1.2. Lịch sử hình thành
       1.2.1. Tên làng và những thay đổi về mặt hành chính
Kim Lũ xưa là một xã gồm 3 thôn: thôn Cầu (từ 1945 đến nay là Kim Giang); thôn Trung nay là Kim Lũ; thôn Văn nay là Kim Văn.
Theo gia phả các dòng họ thì làng Kim Lũ được thành lập từ cách đây hơn 500 năm, vào khoảng đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), tên cổ gọi là làng Lủ (Lủ Cầu, Lủ Trung, Lủ Văn), còn có tên khác là Thanh Đàm cổ ấp. Địa điểm đầu tiên của làng là ở khu vực Gò Sở, Bồ Đa (nay là tên các xứ đồng), sau đó làng chuyển về ven sông Tô Lịch[1], mới đầu chỉ là những chòm xóm lẻ tẻ sau mới phát triển như hiện nay. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu thì làng Lủ có lẽ được hình thành cũng với quá trình dựng nước của người Việt từ thưở các vua Hùng, cách đây trên dưới 2500 năm, vì tên làng Lủ (Kẻ Lủ) là một từ cổ, những làng có từ “Kẻ” đi kèm theo một từ Nôm khác, khó xác định chính xác ngữ nghĩa như Kẻ Lủ, Kẻ Vanh, Kẻ Gùn… là những làng rất cổ. Về sau, Lủ được phiên âm Hán - Việt là Kim Lũ, nghĩa là kim tuyến - sợi dây vàng, chỉ sự giàu sang. [9, tr.336]
Làng Kim Lũ xa xưa thuộc huyện Thanh Đàm, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam[2]. Đến thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1831-1832), thành lập các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình trên cơ sở các trấn Sơn Nam và thành Thăng Long cũ; khi đó Kim Lũ thuộc phạm vi tỉnh Hà Nội. Theo Hà Nội địa bạ ngày mồng 1 tháng 9 năm Tự Đức 19 (1866)[30, tr232] thì xã Kim Lũ thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín. Đến năm 1890, thời vua Thành Thái, trên đất Sơn Nam xưa và Thăng Long cũ, thành lập thêm các tỉnh: Hà Nam (phủ Lý Nhân), Thái Bình (tách từ Nam Định và có nhập thêm một phần, ở phía Nam sông Luộc, của tỉnh Hưng Yên), Cầu Đơ (sau đổi là Hà Đông bao gồm cả: Thường Tín và Ứng Hòa của trấn Sơn Nam xưa). Khi đó, xã Kim Lũ thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông[20, tr.944]. Năm 1899, thực dân Pháp lấy một ít đất đai của các huyện Thọ Xương,  Vĩnh Thuận và Từ Liêm cũ gần sát thành phố lập thành “khu vực ngoại thành Hà Nội”, đến năm 1915, chúng đưa “khu vực ngoại thành” này về tỉnh Hà Đông dưới tên gọi là huyện Hoàn Long.
Từ sau ngày 31-12-1942, thực dân Pháp thành lập “Đại lý đặc biệt Hà Nội”, khu vực này gồm có 9 tống với 60 xã thôn; Kim Lũ lúc này thuộc thuộc Đại Lý Hoàn Long, tỉnh Hà Nội[9, tr337]. Sau cách mạng tháng Tám 1945 cho đến ngày hòa bình lập lại (1954) khu vực ngoại thành Hà Nội bao gồm 120 xã thôn thuộc 4 quận ngoại thành (quận V,VI,VII,VIII)[48, tr.7]. Từ năm 1945 và trong kháng chiến chống Pháp, Kim Lũ có tên là xã Tam Kim. Năm 1949, thêm 2 làng Thượng Đình và Hạ Đình sáp nhập vào xã Tam Kim thuộc quận 6, Hà Nội. Năm 1955, Thượng Đình và Hạ Đình tách về Nhân Chính, Tam Kim sáp nhập với thôn Đại Từ thành xã Đại Kim, thuộc quận 7 thành phố Hà Nội. Đến năm 1961, bằng quyết định ngày 20-4-1961 của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc mở rộng thành phố Hà Nội và quyết định số 78 – CP ngày 31-5-1961 của Hội đồng Chính Phủ thì thành phố Hà Nội có 4 huyện ngoại thành trong đó có huyện Thanh Trì gồm 21 xã và 1 thị trấn; khi đó xã Đại Kim là 1 xã thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Tháng 10/1982, theo Quyết định 173 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, phường Kim Giang được thành lập trên cơ sở một phần diện tích và dân số của làng Kim Giang cùng phần đất và dân cư dọc đoạn đường ven theo sông Tô Lịch (từ phường Thượng Đình tới xã Đại Kim). Tuy nhiên, xã Đại Kim vẫn còn 1 phần thôn Kim Giang cũ thuộc làng Kim Lũ. Đến năm 2003, theo nghị định số 132/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06 tháng 11 năm 2003 về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập các quận Long Biên, Hoàng Mai, thành lập các phường trực thuộc quận Long Biên, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội thì xã Đại Kim trở thành phường Đại Kim thuộc quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Như vậy, cho đến năm 2003, làng Kim Lũ vẫn thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội, về mặt quản lý hành chính vẫn theo mô hình quản lý nông thôn.
Từ tháng 11 năm 2003, Kim Lũ đã trở thành một phần của phường Đại Kim thuộc nội thành Hà Nội, mô hình quản lý chuyển sang mô hình quản
lý thành phố trực thuộc trung ương.
1.2.2. Dân cư Kim Lũ
Theo gia phả các dòng họ và lời các cụ trong làng kể lại thì những cư dân đầu tiên đến lập làng Kim Lũ từ cách đây 500 năm là các cụ Tổ của Ba dòng họ: Hồng, Nguyễn, Hoàng. Sau 3 dòng họ Thủy tổ đó đã có nhiều dòng khác cũng đến nhập cư như họ Nguyễn Nhân, họ Nguyễn Xuân, họ Phạm… Các dòng họ này cũng đến làng khoảng trên dưới 200 năm. Tuy nhiên, đó chỉ là những họ nhỏ, ít người nên cũng không có nhiều ảnh hưởng trong làng.
1.2.2.1. Dòng họ Hồng (Cung)

1.2.2.2.Dòng họ Nguyễn

1.2.2.3. Dòng họ Hoàng

Tiểu kết
Kim Lũ là một làng nằm ven đô Hà Nội, trên mảnh đất được coi là “địa linh nhân kiệt”, nên dân cư về đây tụ cư khá sớm. Theo gia phả các dòng họ thì làng được lập cách đây khoảng trên 500 năm do thủy tổ 3 dòng họ lớn trong làng là họ Cung (Hồng), họ Nguyễn và họ Hoàng.
Trong suốt 500 năm qua, làng đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, tên gọi cũng như địa giới hành chính của làngcó nhiều biến đổi. Khi mới thành lập làng thuộc huyện Thanh Đàm, phủ Thưởng Tín, trấn Sơn Nam, sau đó lại thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội; đến thời vua Tự Đức thì thuộc tỉnh Hà Đông. Thời Pháp thuộc thì thuộc Đại lý Hoàn Long. Đến sau cách mạng tháng 8, Kim Lũ lại trở thành một xã ngoại thành Hà Nội. Đồng thời, trong quá trình lịch sử của mình, vị trí của làng cũng ngày càng gần với trung tâm kinh thành Thăng Long hơn. Đến năm 2003 thì Kim Lũ là một phần của phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thuộc nội thành Hà Nội. Kim Lũ từ một làng ven đô chính thức trở thành một phường nội thành.
Vị trí này có tác động mạnh tới đặc điểm kinh tế xã hội văn hóa của Kim Lũ, tạo nên những nét riêng so với những làng quê Bắc bộ khác.

Phần II
LÀNG KIM LŨ TRUYỀN THỐNG
2.1. Đời sống kinh tế
       2.1.1. Tình hình ruộng đất và kinh tế Nông nghiệp
2.1.1.1. Tình hình ruộng đất
Kim Lũ là một xã gồm 3 thôn: Cầu, Trung, Văn. Theo địa bạ lập năm Gia Long thứ 4 (1805) (lưu tại trung tâm lưu trữ quốc gia I) thì xã Kim Lũ có tổng diện tích là 488 mẫu 7 sào 9 thước (1.615.536 m2), phía Đông giáp thôn Hạ Đình và thôn Thượng – thôn Hạ của xã Định Công cùng huyện và thôn Đại Từ xã Linh Đường, địa giới dựa theo sông Kim Giang và Trung Giang; phía Tây giáp xã Triều Khúc huyện Thanh Oai, địa giới dựa theo đất ruộng hai xã làm ranh giới; phía Nam giáp xã Quang Liệt cùng huyện, địa giới dựa theo đường phân cách hai xã làm ranh giới; phía Bắc giáp thôn Hạ Đình xã Nhân Mục cùng huyện, địa giới dựa theo đường đi phân cách hai xã làm ranh giới. Ruộng đất xã bao gồm các loại: công điền[1], tư điền[2], thần từ Phật tự[3], công thổ[4], thổ trạch viên trì[5]; ngoài ra còn có đất tha ma và thổ phụ[6] không được tính vào diện tích ruộng đất trong địa bạ.


Thống kê theo địa bạ có 101 hộ dân có sở hữu ruộng tư, trong đó có 17 hộ dân có sở hữu trên 5 mẫu, nhiều nhất là hộ ông Nguyễn Sở dDisnh có 8 mẫu 1 sào ruộng. So với các làng xã khác vào thời điểm này đây có thể là một sở hữu ruộng đất khá lớn. Đặc biệt trong làng không ai có sở hữu ruộng dưới 1 mẫu, đa số có sảo hữu từ 2-3 mẫu ruộng. Ruộng đất của làng cũng có người ở nơi khác đến canh tác, đó là những hộ dân xã Quang Liệt (13 trường hợp), đây hầu hết là các ruộng sát với ruộng của xã Quang Liệt nên có thể lý giải những người dân này đã mua lại ruộng của người dân Kim Lũ. Sự mua bán ruộng không chỉ với xã lân cận mà một số người dân ở các xã huyện khác cũng đến mua như dân xã Đáp Đường cùng huyện (2 trường hợp), dân huyện Thọ Xương( 1 trường hợp), dân xã An Ánh huyện Từ Liêm (1 trường hợp). 
Theo đề tài khoa học cấp Quốc gia Hà Nội của TS. Vũ Văn Quân: “Làng xã Thanh Trì (ngoại thành Hà Nội) đầu thế kỉ XIX qua tư liệu địa bạ” thì diện tích trung bình một xã thôn ở huyện Thanh Trì là 275 mẫu như vậy so với nhiều làng xã trong huyện thì xã Kim Lũ có quy mô tương đối lớn. Nhưng chất lượng ruộng tại đây lại không cao, ruộng loại 3 chiếm tỷ lệ lớn đến khoảng 50%  còn ruộng loại 1 chỉ có khoảng 10%.
Ngoài ra, Kim Lũ còn có ruộng Thần tự Phật tự với diện tích là 3 mẫu, được giao cho dân thôn Cầu canh tác. Theo các cụ trong làng thì hoa lợi từ ruộng này được dùng để lo các việc nhà chùa. Đình thì không có ruộng mà khi có việc đình, lễ, hội thì các hộ trong làng sẽ cũng nhau đóng góp hoặc lấy từ hoa lợi của ruộng công của làng.
Ngoài ruộng công của làng, ruộng tư của mỗi hộ, các dòng họ cũng có ruộng chung của họ gọi là ruộng họ. Ruộng họ là một dạng ruộng tư, do những người đỗ đạt làm quan, hay những hộ có điều kiện kinh tế mua và cúng vào họ. Ruộng họ được hội đồng gia tộc giao cho một số nhà trong họ cấy, sau trả lại hoa mầu. Hoa lợi từ ruộng họ được dùng vào các việc của họ như giỗ tổ, tiết Thanh minh hay Đông chí… Những người đỗ đạt trong các kỳ thi cũng được họ khuyến khích, giúp đỡ bằng hoa lợi từ ruộng họ. Diện tích ruộng họ là bao nhiêu thì không ai nắm rõ, nhưng mỗi họ đều có một phần ruộng họ, họ nào càng có nhiều người làm quan và có điều kiện kinh tế thì càng có nhiều ruộng họ. Theo các cụ trong họ Nguyễn thì họ có khoảng 3 mẫu ruộng họ. Đây là một diện tích không nhỏ, có lẽ vì đây là một dòng họ khoa bảng của Làng.

Tóm lại, Kim Lũ là một làng có diện tích ruộng khá lớn nhưng chất lượng không cao ruộng loại 3 chiếm đa số. Tỷ lệ sở hữu ruộng tư khá phổ biển, so với tỷ lệ công tư chung của cả nước bấy giở ( công: 17%, tư: 83%) thì tỷ lệ sở hữu ruộng tư ở đây là khá cao (khoảng 90%), chứng tỏ sở hữu tư nhân về đất đai đang chiếm ưu thế ở đây. Khu vực dân cư cũng khá rộng lơn nhưng vẫn chưa sử dụng hết, vẫn còn nhiều khu đất trống và ao hồ.
            2.1.1.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp
Cũng như các làng quê khác ở đồng bằng Bắc Bộ, xưa kia nghề chính của Kim Lũ là nghề nông, trồng lúa nước là chủ yếu, ngoài ra còn trồng một số loại rau mầu khác như khoai lang, ngô, rau…Nhờ đất đai màu mỡ của phù sa sông Hồng, dòng nước sông Tô Lịch ngọt ngào trong vắt mà nhiều sản phẩm nông nghiệp của Kim Lũ khá nổi tiếng trong vùng như: gạo Ré Hoa thơm dẻo, khoai lang Lim nhiều bột trắng mịn ngọt ngào, giống ngô Đăm hạt nhỏ màu vàng óng, khi rang lên nở to như bông hoa bưởi, chuyên dùng để rang bỏng gọi là bỏng ngô. Chẳng thế mà, sản phẩm của làng Lủ đã sớm được đưa vào câu ca dao:
“ Làng Lủ gạo trắng nước trong
Ai về kẻ Lủ thong dong con người”.
Cũng như các làng quê Bắc bộ khác, dân làng Kim Lũ một năm cấy 2 vụ vào tháng Giêng và tháng 6,7 âm lịch, ngoài ra còn thêm 1 vụ mầu vào tháng 11, 12. 
  2.1.2. Thủ công nghiệp
Ngoài nghề nông do ở gần kinh thành kẻ chợ, với bàn tay khéo léo chuyên cần, dân làng Kim Lũ còn có nhiều nghề thủ công khá nổi tiếng trong vùng, trong tỉnh như câu ca:
“Làng Lủ nổi tiếng bỏng rang
Kẹo vừng bỏng cốm lắm hàng nhiều thay”.
2.1.2.1. Nghề chế biến nông sản
Như phần trên đã trình bày, ruộng đất làng không nhiều, lại cũng không màu mỡ nên sản lượng lương thực không cao, hầu như chỉ đủ ăn. Hơn nữa, do vị trí làng gần với kinh thành Thăng Long nên rất thuận lợi để phát triển nghề làm quà bánh. Do dó, từ lâu làng Lủ đã có rất nhiều nghề phụ mà nghề nào cũng nức tiếng gần xa như nghề làm kẹo, làm bỏng, làm cốm, chè Lam, đường nhân bánh trôi, làm bánh đa khoai.
Theo các cụ cao niên kể lại, nghề làm bỏng, kẹo ở làng đã có từ thời Hậu Lê. Bỏng Lủ gồm có: bỏng ngô; ngô rang trộn mật; bỏng bộp (làm từ thóc nếp rang); bỏng cốm (làm từ cốm rang nổ ròn) cắt thành chiếc vuông như bao diêm. Cách làm bỏng cũng không có gì đặc biệt, mỗi loại bỏng khác nhau ở nguyên liệu nhưng cách làm thì tương tự nhau. Bỏng thường được làm bằng ngô hoặc gạo, nguyên liệu được cho vào chảo gang rang, đảo đều cho nổ to ra là thành bỏng. Ngoài ra, với bỏng mật, bỏng có thêm đường mật, ngọt và thơm mà không nhạt như bỏng thường. Kẹo Lủ cũng có khá nhiều chủng loại, kẹo bột, kẹo vừng, kẹo lạc... thường được làm theo mùa vụ còn kẹo dồi lại được làm bán quanh năm.
Đường viên làm nhân bánh trôi thường được làm vào tháng hai, tháng ba âm lịch. Nguyên liệu của đường viên nhân bánh trôi không phải là mật hay đường loại thường mà là “chè”, thứ nước đặc sệt, vàng sánh trong vắt như hổ phách nổi trên mặt chum mật đường, bên dưới là đường đang kết tinh thành đường phèn. “Chè” này phải lấy từ mạn Thường Tín mới là hàng chuẩn. Vì vậy, đường bánh trôi làng Lủ để lâu, không bao giờ bở hay chảy nước. Kể cả trời nồm, nóng ẩm, bê cả thúng ra phơi nắng mà không hề hấn gì.
Cốm Lủ khác cốm Vòng ở chỗ là được sản xuất quanh năm: thóc nếp quýt, nếp cái, được nếp cái hoa vàng thì tốt, ngâm đủ độ ẩm, đem rang chín lên rồi cho vào cối cần (dân làng Lủ gọi là cối máy) giã nhanh chầy thành cốm trắng, còn gọi là cốm mộc. Cốm Lủ ăn ngon bùi, càng nhai kỹ càng thơm càng dẻo, rất tiện lợi cho việc vận chuyển, bảo quản làm lương khô. Cốm Lủ là nguyên liệu chính để làm cốm xào, cốm nén và bỏng cốm. Cốm Lủ là nguyên liệu chủ yếu quanh năm của các cửa hiệu bánh cốm ở phố Hàng Than, món đặc sản phục vụ các đám sêu, đám cưới.
Chè Lam Lủ đã từ lâu là mặt hàng độc đáo nổi tiếng của Kim Lũ ở chốn Kinh kỳ. Sự đặc biệt của loại đặc sản này tên gọi là chè, những hình dáng lại có dạng giống kẹo (nhưng không gọi là "kẹo lam"). Nguyên liệu chính làm chè lam là: thóc nếp, lạc, mật mía kèm theo hương vị thảo quả, gừng. Thóc nếp để làm chè Lam phải là loại thóc nếp già hạt và mẩy, phơi thật khô. Sau đó rang thóc, không được rang nóng quá và phải rang đều tay. Khi thóc đã chuyển sang dạng bỏng thì xay thành bột, xưa thì phải giã bằng chày tay, bột lúc này có màu trắng như tuyết là được. Bột làm xong, được trộn mật mía (thường là mật mía mua từ Phùng, Mai Lĩnh - Chương Mỹ), mạch nha, nước, sau đó được đưa lên chảo quấy đều, đun sôi đến khi thành keo là được, cuối cùng cho thảo quả và gường giã nhỏ, lạc rang vào. Chè Lam có hai loại là vuông và tròn. Nếu là chè Lam bán vào dịp tết  thì chất lượng phải coi trọng hơn: lạc phải nhiều hơn và hương liệu phải được tăng cường. Đặc biệt chè Lam Lủ bán dịp tết thường được cắt nhỏ đều như chiếc kẹo, ủ kỹ hoặc đóng vào túi bảo quản hàng tháng không biến chất, ăn giòn nhưng lại dẻo, không bị khô cứng như một số chè Lam ở các nơi khác.
Cuối thế kỷ XIX, Kim Lũ có thêm một nghề chế biến nữa là làm Bánh đa khoai. Tương truyền do cụ Đô Đính truyền cho. Dân làng làm bánh đa khoai từ tháng 5 ngay sau vụ chiêm. Khoai để làm bánh đa khoai phải chọn lựa kỹ càng, phải là khoai mới dỡ còn ruột trắng, dù là khoai lang trồng trong làng hoặc mua ở nơi khác về đều phải đạt yếu tố trên. Khoai luộc xong bóc hết vỏ lụa, cho cả củ vào cối giã. Khoai giã nhuyễn ra, dùng bay xúc khoai bỏ vào "khuôn", dùng bay miết lên mặt "khuôn" tạo thành chiếc bánh. Sau khi bột khoai miết kín khuôn lột chiếc bánh ra khỏi khuôn, đổ vào nong, bánh rơi khỏi khăn của khuôn, người ta dúng nhẹ khăn vào nước, rồi trát cái khác. Sau đó các nong được đem phơi nắng. Bánh đa khoai thơm và rất giòn, bánh chín hai lần lại có màu trắng hấp dẫn. Ăn có vị ngọt của khoai, không bị nhạt như bánh đa gạo ngày xưa nên rất hấp dẫn với mọi người.
Nghề chế biến nông sản được phổ biến trong làng, hầu hết người thôn Kim Lũ và một phần thôn Kim Văn đều biết làm nghề này. Các hộ gia đình cũng không có bí quyết riêng hay giữ bí quyết riêng cho mình mà các gia đình đều làm chung một cách thức, một bí quyết của làng, tạo nên danh tiếng cho cả làng. Nghề này chủ yếu được làm khi nông nhàn và sử dụng ngay chính các sản phẩm nông nghiệp của làng. Người đàn ông thì ở nhà làm hàng, người phụ nữ thì mang lên Kinh kỳ bán. Nhờ nghề phụ mà mặc dù ruộng đất không nhiều nhưng dân làng vẫn tương đối ấm no, đời sống sung túc hơn so với các làng khác.
2.1.2.2. Nghề làm quạt Lủ
Ngoài nghề chế biến nông sản ra, Kim Lũ còn có nghề làm quạt giấy, còn gọi là quạt “Lưỡng tiện” hay “quạt Thước” (vì nan quạt dài tới một thước ta (0,40m) trở lên), “quạt Lủ” nổi tiếng. Tương truyền nghề này do cụ Cò Phát đem về hơn trăm năm và cũng chỉ tập trung ở một số người trong một xóm. Quạt được làm bằng những thanh tre cật, vót nhẵn, phết giấy bản và nước cậy. Xưa kia quạt Lủ được dùng để tiến vua, chỉ những người giàu có, sang trọng mới mua để dùng hay biếu tặng. Quạt dài trên nửa mét vừa đẹp vừa bền, dùng vào nhiều việc từ quạt gió, che nắng đến cả dùng để tự vệ cũng rất lợi hại. Nghề làm quạt đến khoảng những năm 30, 40 của thế kỉ trước thì bị mai một.
Các nghề phụ này cùng với nghề nông đã đem đến cho người dân Kim Lũ một cuộc sống tương đối ổn định, ấm no so với các địa phương khác. Kẹo vừng, kẹo lạc, bỏng ngô, bánh đa khoai làng Lủ một thời tràn ngập các chợ quê xa gần trong vùng, nhiều nơi kể cả các hàng quán trong nội thành Hà Nội cũng về đây buôn cát. Cốm trắng làng Lủ là nguyên liệu của các nhà sản xuất bánh cốm Hàng Than. Kẹo dồi làng Lủ cũng chiếm ngự thị trường thời bao cấp. Quạt Lủ được bày bán trên phố Hàng Quạt, là loại quạt dành cho người sang trọng quyền quý. Những năm 1960 - 1980 các nghề này rất phát đạt, tuy nhiên đến nay đã mai một dần. Riêng chè Lam làng Lủ hiện vẫn còn là mặt hàng đặc sản trong dịp đón Tết Nguyên Đán hàng năm trên thị trường.
       2.1.3. Thương nghiệp và chợ làng
·        Thương nghiệp:
Người Kim Lũ không chỉ đỗ đạt cao, đóng góp nhiều cho văn hóa Thăng Long - Hà Nội, mà còn khéo tay, giỏi buôn bán nên các sản phẩm của làng đã chiếm lĩnh thị trường một thời.
Người xưa có câu “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ” để đánh giá về sự thuận lợi cho việc buôn bán. Xét theo tiêu chuẩn trên, vị trí địa lý của làng Kim Lũ hội tụ cả 3 điều: gần Kinh thành Thăng Long (cận thị), gần với sông Tô (cận giang) và Kim Lũ nằm ngay trên con đường cái quan đi vào kinh đô (là đường 70B-nay là đường Kim Giang) (cận lộ). Do vị trí thuận lợi như vậy nên từ lâu các sản vật của làng Lủ đã nức tiếng gần xa, được nhiều cửa hàng trên phố về đây buôn cất. Đặc biệt sau khi có chợ Lủ thì việc buôn bán ở làng càng sầm uất hơn. Vì vậy, nhiều hộ nghèo ít ruộng đất cũng nhờ nghề phụ mà duy trì được cuộc sống, ít khi phải đi làm thuê, làm mướn cho chủ đất.
Ca dao cũ có câu:
“Em là con gái Lủ Trung
Bán đường, mua bút cho chồng đi thi
Nữa mai chiếm bảng vinh quy
Bõ công sớm tối bốn thì công lênh...”
Qua câu ca dao ta thấy rằng trong sự thành đạt của những người làng Lủ, có vai trò rất lớn của những người mẹ, người vợ. Phụ nữ Kim Lũ đảm đang, tần tảo giúp chồng, con, đến mức coi sự thành đạt của chồng, con là mục đích sống, là niềm tự hào của mình. Qua câu ca ta cũng thấy rằng thương nghiệp của làng cũng rất phát triển: “Bán đường, mua bút cho chồng đi thi”.  
·        Chợ làng
Mặc dù việc buôn bán phát triển như vậy, nhưng vốn làng Lủ không có chợ, mà dân làng phải đi các chợ vùng lân cận, hoặc gánh rong lên Kinh bán. Phải đến khoảng cuối thế kỉ 19, làng mới có chợ được gọi là chợ Lủ.
Xưa kia, quanh làng Lủ có chợ Quang, chợ Bằng, chợ Sét, chợ Mơ, chợ Ngã Tư Sở, xa hơn có chợ Bưởi nhưng làng Lủ không có chợ. Sau đó cụ Nguyễn Trọng Hợp (còn gọi là cụ lớn Văn) có công mở chợ Lủ để dân làng họp chợ khỏi phải đi xa. Theo dân làng, đáng lẽ chợ làm ở vị trí đình cũ, chỗ nhà bia, cách cổng làng Lủ bây giờ khoảng 50 mét. Nhưng cụ Văn cho rằng chợ phải có quán, có quán thì nhiều đối tượng phức tạp, nhiều cảnh nhếch nhác diễn ra. Nếu chợ đặt ở ngay gần đình sẽ làm xấu cảnh quan và giảm linh thiêng của ngôi đình nên cụ không cho làm chỗ đấy mà sang cắm đất làm chợ Lủ trên đất làng Định Công, cách làng Lủ bởi con sông Tô Lịch. Hai bên thỏa thuận với nhau rằng người làng Lủ và làng Định Công buôn bán ở chợ có quyền lợi như nhau: không phải đóng thuế chợ, chỉ thu thuế người ở các nơi, hàng tổng hàng huyện đến. Chợ họp một tháng 9 phiên vào các ngày 1, 4, 6, 11, 14, 16, 21, 24, 26. Sở dĩ dân làng chọn các phiên chợ ấy là để tránh 6 phiên chợ Mơ (ngày 2, ngày 7); 6 phiên chợ Quang (ngày 3 và 8), 6 phiên chợ Bưởi (ngày 4 và ngày 9) và các chợ lân cận. Chợ Lủ nằm theo sông Tô Lịch và hướng chính quay mặt ra sông. Diện tích chợ lúc hoạt động rộng nhất tới hơn một mẫu. Từ sông Tô Lịch nhìn vào có ba dãy quán bảy gian, bài trí theo hình chữ U: Hai bên hai dãy và có một dãy vuông góc với hai dãy ấy. Các dãy nhà bảy gian này tường được xây bằng gạch, mái lợp ngói ta, các gian cách nhau khá rộng, mái cao và thoáng. Dãy quán bảy gian phía trong chạy song song với sông Tô Lịch. Khoảng giữa hai quán là đất trống được chia ngồi thành hai dãy quay lưng vào nhau, tạo thành hai lối đi, để mọi người thuận lợi mua bán. Khoảng đất trống bên phải chợ lúc sầm uất dân làng còn bán cả trâu, bò. Hàng hóa ở chợ chủ yếu là các mặt hàng nông sản, thực phẩm như cá, thịt, rau… và một số đặc sản của làng, dân làng có cái gì thì mang ra chợ bán cái ấy.

Sau khi chợ Lủ bị phá thì dân làng gánh hàng vào Kinh đô để buôn cất và bán rong; hoặc sang các chợ gần làng như chợ Quang (ở Quang Liệt) và chợ Đơ (ở Triều Khúc). Từ sáng sớm, các bà các chị đã quang gánh tề tựu ở bến tàu điện Cầu Mới để kịp chuyến tàu điện đầu tiên vào thành phố lúc 5 giờ sáng. Bán buôn thì gọn mà ít lãi, cho nên hầu hết là đi bán rong; bày mỗi thứ quà đặc sản một ít lên cái mẹt đậy khít miệng thúng. Họ đi khắp cả Kinh Kỳ. Giá cả các món quà cũng rất rẻ: Chè lam tròn, dẹt bằng miệng bát ăn cơm, có nhân lạc thì 1 hào một cái, chè lam vuông bằng con chì hay kẹo bột chỉ 5 xu một chiếc; bánh đa khoai còn rẻ hơn, có 1 chinh một cái; bỏng bộp, 1 xu được những chục nắm. Giá rẻ lại thơm ngon nên những món quà quê ấy được dân Kinh kỳ rất ưa chuộng. Vì vậy, hầu hết các hộ có nghề phụ trong làng cuộc sống đều tương đối ấm no.
Từ xưa, việc buôn bán đã giành cho phụ nữ, người đàn ông chỉ ở nhà sản xuất. Hàng quà bánh tuy đem lại thu nhập nhưng lại không phải là nghề chính, nghề chính vẫn là nông nghiệp nên dân làng chỉ tập trung làm nghề phụ và buôn bán vào những lúc nông nhàn.
2.2. Tổ chức xã hội và quản lý làng xã
       2.2.1. Tổ chức quản lý làng xã
·        Bộ máy hành chính
Trước cách mạng tháng 8/1945, Kim Lũ là một xã gồm 3 làng thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. 
       Trước thời Pháp thuộc, ở cấp xã, người đứng đầu mỗi thôn là phó lý, người đứng đầu xã là Lý trưởng, đứng đầu một tổng là Chánh tổng. Xã Kim Lũ thuộc tổng Khương Đình, làng Kim Lũ cũng đồng thời là xã Kim Lũ- là đơn vị hành chính cấp cơ sở. Lý trưởng và phó lý là những người trực tiếp quản lý làng. Lý trưởng và phó lý là những người do dân bầu ra, nhưng phải được phủ huyện xét kỹ, sau đó đưa lên quan tỉnh để cấp văn bằng và làm mộc triện. Họ được phân chia cho một số ruộng để cấy mà không phải nộp tô, thậm chí, họ còn lạm dụng chức quyền để lạm thu tô thuế bỏ túi riêng. Mỗi làng xã khi đó là một đơn vị cấp cơ sở.
  Vào thời Pháp thuộc, Chính quyền đã đặt ra các đợt cải cách hành chính gọi là các cuộc “cải lương hương chính”.  Ngày 12-8-1921, Thống sứ Bắc Kỳ đã ra Nghị định về việc cải tổ bộ máy quản lý cấp xã. Theo văn bản này, việc quản trị các xã được giao cho Hội đồng tộc biểu, với số thành viên từ 4 đến 20 người và một nhiệm kỳ là 3 năm. Tuy nhiên việc này không đem lại hiệu quả như mong muốn nên năm 1941, theo đề nghị của Thông sứ Bắc kỳ, vua Bảo Đại đã ra đạo Dụ số 31 nhằm chấn chỉnh lại việc tổ chức và quản lý các công việc làng xã, Theo bản đạo Dụ này việc quản trị làng xã được giao cho một cơ quan duy nhất là Hội đồng kỳ mục. Tiêu chuẩn tham gia vào Hội đồng ngoài các nhà khoa bảng, có phẩm hàm, còn có cả các quan lại, viên chức, những người tham gia quân đội của chính quyền thuộc địa và chính phủ Nam triều. Đạo Dụ quy định chức vụ đứng đầu Hội đồng kỳ mục là Tiên chỉ và Thứ chỉ. Bộ phận thừa hành gồm: Lý trưởng, Phó lý và các chức dịch khác: Chưởng bạ (trông coi sổ địa bạ), Hộ lại (phụ trách hộ tịch), Thư ký, Thủ quỹ, Trương tuần (phụ trách công tác trị an)[6, tr.144].
Như vậy cũng giống như các làng quê Bắc Bộ khác, thời kỳ này bộ máy quản lý cấp xã Kim Lũ là một Hội đồng kỳ mục gồm đầy đủ chức sắc như trên.
·        Giáp
       Làng Lủ có bốn giáp:
Giáp Đông - bao gồm hai họ Cung Chính và Cung Bàng.
Giáp Đoài - gồm họ Nguyễn  Xuân và họ Cung ở xóm Điếm.
Giáp Nam - gồm họ Nguyễn Công và Nguyễn Văn.
Giáp Bắc - gồm họ Hoàng và họ Nguyễn Xuân.
       Con trai đủ 18 tuổi (tuổi mụ) là được vào giáp (cũng là vào làng). Các trai đinh ở 3 bàn cuối phải làm cỗ phục vụ làng, biếu phần các cụ trung đình và những người có hàm quan từ thất phẩm trở lên. Nội dung hoạt động của phe Giáp cũng mang tính xã hội và nhân văn.  Giáp là tổ chức để phân công biện lễ và phục vụ tế lễ trong các dịp lễ tiết và hội làng, tổ chức tang lễ cho người chết. Tài sản chính của mỗi Giáp là ruộng. Ruộng này do những người không có con trai thành tâm cúng tiến vào quỹ ruộng hậu. Đối với người sống, nếu có hoàn cảnh khó khăn thì được cấy ruộng của Giáp. Thực chất đây là hoạt động khuyến nông, luân phiên giúp nhau giải quyết khó khăn về việc làm và đời sống. Đối với người chết mà không có con trai, hàng năm cũng được cộng đồng cúng giỗ, là chỗ dựa về tinh thần.
·        Hương ước
Kim Lũ cũng có hương ước, hương ước là các quy định chung, luật lệ chung cho cả làng. Tuy nhiên hương ước này đã bị thất truyền, đến nay không còn. Thông thường hương ước được ghi thành các điều khoản đề cập đến nếp sống và tập quán sinh hoạt của làng xã mà mọi cá nhân, mọi thành viên và mọi tổ chức trong làng xã đều phải chấp hành triệt để [6, tr.139]. Vì vậy, Hương ước đã góp phần hướng dẫn và điều chỉnh các hành vi và lối sống của mỗi xã dân phù hợp với truyền thống, đặc điểm làng.
Theo các cụ trong làng kể lại thì có một quy định trong hương ước là: nếu gái làng đi lấy chồng thiên hạ thì phải đóng góp để lát gạch một quãng đường khoảng 10m. Trong Thần tích thần sắc của thôn Cầu cũng có nói đến việc phạt vạ trong Hương ước là: “ Những người trái với hương ước thời phải vạ tùy sự lỗi phạt từ 2 hào đến 1 đồng bạc, nộp vào công quỹ và cấm không được ăn uống với làng từ 6 tháng đến 1 năm. Hương lsy được quyền bắt vạ, phải nộp vạ cho cả làng, hạn trong 3 ngày thì phải nộp vạ, nếu bướng ngạnh không chịu thì trình quan xét xử siu theo hương ước tục lệ”.
       Mặc dù có nghề phụ rất nổi tiếng và dân làng làm nghề nhiều nhưng trong làng không có các phường nghề. Bởi nghề này chỉ là nghề lúc nông nhàn, mà nghề nông vẫn là nghề chính của làng. Các hộ dân tự do buôn bán và sản xuất, sau đó mang lên kinh thành buôn cất hoặc bán rong, không có một tổ chức quản lý. Các hộ gia đình, dòng họ cũng không có quy định về việc giữ bí quyết riêng của nghề.
2.2.2. Gia đình và dòng họ
Trong làng có hơn chục dòng họ khác nhau, nhưng có 3 dòng họ lớn nhất và đến làng sớm nhất là họ Hoàng, họ Cung (Hồng), họ Nguyễn; các dòng họ này chiếm khỏang 95% tổng số đinh trong làng. Theo thể phả của làng thì họ Hoàng là họ đến định cư sớm nhất, tuy nhiên không rõ thời gian; họ Hồng đến định cư vào năm Hồng Đức thứ 24 (1493); họ Nguyễn từ đất Sơn Nam đến định cư vào năm Nguyên Hoà nguyên niên (1543).
       Các dòng họ đều có 1 trưởng tộc thuộc vào chi trưởng, ngoài ra các chi khác cũng có 1 người làm trưởng chi. Hiện nay, chỉ có 2 họ Cung và họ Nguyễn có nhà thờ họ. Các dòng họ đều có ngày giỗ họ là dịp để các con cháu tụ họp, tưởng nhớ tổ tiên. Lễ giỗ họ thường được tổ chức ở nhà trưởng họ hoặc nhà thờ họ, các hộ gia đình trong họ đóng góp theo suất đinh. Trước đây các dòng họ đều có ruộng họ, ruộng họ được tộc trưởng giao cho một số hộ trong họ cấy hái, hoa lợi thu được được dùng vào các dịp lễ của họ.
Trong 3 dòng họ thì họ Cung là họ có số đinh đông nhất, đây cũng là họ mạnh nhât về kinh tế do có đông đinh nên có nhiều ruộng, lại giỏi nghề phụ, khéo buôn bán. Tuy nhiên, họ Nguyễn lại được trọng vọng hơn vì họ này có số người đỗ đạt làm quan đông nhất làng. Nói về truyền thống hiếu học của dòng họ, các cụ trong họ Nguyễn cho rằng do họ không có nhiều ruộng, lại ít làm nghề phụ nên phải tìm con đường học hành để tiến thân. Cũng nhờ có số người đỗ đạt cao và ra làm quan đông, nên vị thế của dòng họ trong làng được coi trọng, nhiều người trong họ sau khi cáo quan về làng đều có đóng góp cho làng xã, dòng họ. Các dòng họ cũng có tộc ước, trong đó quy định các vấn đề về lễ nghĩa, tôn ti trong họ; các ngày lễ Tết của họ, các quy định về đối nhân xử thế, khuyến khích con cháu học hành… Bên cạnh hương ước của làng, tộc ước cũng là một loại văn bản có tính luật lệ, mà mọi thành viên trong họ phải tuân theo, nó ràng buộc những người trong họ gắn kết với nhau,cùng tương trợ giúp đỡ nhau, tạo nên sức mạnh cộng đồng dòng họ.
Các dòng họ trong làng rất đoàn kết, hòa thuận với nhau, trai gái giữa các họ thường lấy nhau, càng làm tình làng xóm thêm bền chặt.
       2.2.3. Một vài tổ chức và đoàn thể khác
Do Kim Lũ vốn là đất học, có nhiều người đỗ đạt nên nhiều thầy đồ mở các lớp học tại nhà với vài người học trò theo học chữ Nho, các học trò tạo thành hội đồng môn (học cùng thầy). Hội này gồm những học trò theo học cùng 1 thầy. Khi nhà thầy có việc thì các học trò lại tụ tập đến giúp, hay những dịp Lễ tết cùng nhau đến chúc thầy. Cho đến khoảng những năm 1920 đến kháng chiến chống Pháp, làng có 1 trường tiểu học đến lớp 3 dạy chữ quốc ngữ, để học sinh trong làng và vùng lân cận theo học. Trường tiểu học này nằm ở điếm làng, nay là nhà Văn hóa tổ 28. Đến thời điểm này, vẫn có hội đồng môn. Sau này, còn có thêm hội đồng niên (đến nay vẫn duy trì) đó là hội những người bằng tuổi, hội này thường tập hợp khi trong làng có việc, chẳng hạn như hội làng, để phân công người tham gia chuẩn bị, phụ giúp việc làng; hay khi các thành viên trong hội có việc thì mọi người cũng chung tay giúp đỡ, chia sẻ…
2.2.4. Bố trí các khu đân cư
Làng Lủ xưa nằm ven sông Tô Lịch, có đường cái quan đi lên kinh đô nhưng con đường chính nối các thôn lại là đường đất ven cánh đồng, dân làng chủ yếu đi bằng đường này (do đường ven sông rất vắng người đi lại). Dân làng sống tập trung thành các xóm, nằm ở phía Đông, sát với đường cái quan, còn khu cánh đồng được tách riêng nằm phía Tây. Các ngõ xóm tương đối thẳng nối liền các xóm, thôn với nhau, mỗi thôn lại có vài trục ngõ chính, các nhà đều quay mặt hướng ra các ngõ chính này, đây cũng là cơ sở để phân chia các xóm ở các thôn. Thôn Kim Giang có 1 đường ngõ chính chạy qua cánh đồng sang làng Tân Triều, theo đường ngõ này, bên trái là xóm Cầu (gần Cầu) và bên phải là xóm Chùa (gần Chùa). Kim Lũ có 4 xóm, lấy ngõ chính làm chuẩn thì có xóm Đình trong nằm bên phải, hướng Đông Bắc, xóm Đình ngoài nằm bên trái hướng Đông Nam, xóm Điếm ở hướng Tây Bắc và xóm Ngõ 3 ở hướng Tây Nam, xóm Điếm và xóm Ngõ 3 nằm gần cánh đồng. Tên các xóm được đặt do vị trí đại lý của chúng như xóm Điếm là xóm có điếm làng, xóm ngõ ba nằm ở đường trục rẽ ba (giao đường snag Kim Văn và đường ra cánh đồng), xóm Đình trong nằm ở phái sau giáp đình. Còn đường trục chính của thôn Kim Văn lại có hình chữ U, chạy quanh thôn, thôn được chia làm 2 xóm là xóm trên và xóm dưới, xóm trên gần với thôn Kim Lũ (có đình làng), xóm dưới gần với làng Quang Liệt. 
2.3. Các sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
      2.3.1. Truyền thống khoa bảng

2.3.2. Công trình kiến trúc văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng

     2.3.2.1. Cổng làng

2.3.2.2. Chùa Lủ

2.3.2.3. Đình làng

                   2.3.2.3.1. Đình Kim Giang (Lủ Cầu)
Đình thờ thành hoàng là đức Mạo Giáp Hoa. Theo thần phả, thần là người làng Thiên Bảo (nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), sống dưới thời vua Lê Anh Tông (1557-1673). Thần vốn là một vị tướng đi dẹp giặc ở vùng Sơn Tây. Sau khi thắng trận trở về Ngài đi qua làng Lủ Cầu, dừng chân ở đây khao quân, khi Ngài hóa được nhân dân tôn làm Thành hoàng, đời đời thờ phụng. Triều đình ban sắc cho dân Lủ Cầu thờ làm Phúc thần. Hội làng hàng năm tổ chức vào 12 tháng 2 âm lịch.
Vị trí của đình nằm sát đường cái quan (nay là đường Kim Giang), nhìn ra sông Tô Lịch. Kiến trúc của Đình gồm cổng Tam quan, sân gạch, Đại đình, hai nhà tả hữu. Theo ông Nguyễn Văn Thuật là cụ từ của đình thì đình được xây dựng từ cách đây hơn 100 năm, năm 2006 đã được trùng tu, thay ngói, và đắp lại đôi rồng trên mái đình. Trong đình còn lưu giữ được 5 bản sắc phong. Trước đây các bản sắc phong được lưu giữ tại nhà sắc cách đình khoảng 500m. Vào ngày hội, có lễ rước bản sắc phong từ nhà sắc về đặt ở đình trong 3 ngày. Nhưng hiện nay các bản sắc đã được đặt tại hậu cung đình.               
2.3.2.3.2. Đình Kim Lũ (Lủ Trung)
 Đình thờ vị thần xưa hơn đình Kim Giang rất nhiều, đó là Quý Minh Đại Vương, em thúc bá với Đức Thánh Tản Viên.
Theo thần phả, thưở hàn vi ngài lấy nghề kiếm củi nuôi dưỡng mẹ già. Thấy được tấm lòng hiếu thảo của ngài, bà tiên đã dạy ngài phép lạ. Ngài dùng phép thuật cứu dân thoát khỏi nạn dịch ốm đau, chết choc hoành hành. Vào thời vua Hùng thứ 18, quân Thục nhăm nhe ngôi báu, vua Hùng vời ngài ra giết giặc cứu nước. Ngài cùng với Đức Thánh Tản Viên (Sơn Tinh) và em là Cao Sơn Đại Vương đem quân đi dẹp giặc Thục Phán. Khi qua Thanh Đàm cổ ấp có tuyển thêm dân binh cùng đi đánh giặc. Khi thắng trận có qua Cổ ấp ban thưởng và khao quân. Sau này nhân dân nhớ ơn và tôn Ngài là Thành hoàng, thượng đẳng Phúc Thần, chở che cho dân làng. Các triều đại đều ban sắc phong ngài là Thượng đẳng thần. Hiện còn 9 đạo sắc của các triều đại Lê, Nguyễn là Cảnh Hưng, Chiêu Thông, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định.
Vị trí của đình nằm sát đường cái quan, nhìn ra sông Tô Lịch, nhộn nhịp trên bến dưới thuyền, phong cảnh thật tuyệt vời. Tổng thể kiến trúc gồm: cửa Tam quan, sân gạch, đại đình và hậu cung. Tam quan Đình cửa chính cao rộng, nóc kiểu 2 tầng 4 mái, chính giữa đắp nổi bức cuốn thư. Hai cổng phụ liền kề, trên nóc mái đắp nổi 2 hình rồng dát mảnh sứ, đầu ngoảnh về cửa chính. Đình Kim Lũ kết cấu kiểu chữ Đinh gồm đại đình 3 gian 2 chái, tòa nhà dọc 2 gian nối đại đình với hậu cung hình vuông. Hai bờ đình đắp nổi đôi rồng uốn khúc từ trên xuống đầu rồng ngoảnh lên nóc mái. Hậu cung đình xây kiểu 2 tầng 8 mái, cao hơn đại đình, tầng dưới bốn đầu đao gần vân mây, tầng trên đắp nổi bốn đầu rồng chầu lên nóc mái gần mặt trời ngắm hổ phù. Năm 1950, do quân ta đánh sân bay Bạch Mai, nên Pháp càn quét và phá sạch đình Kim Lũ, hoành phi bị chúng đem đi làm bốt ở khu tập thể Kim Giang, vì vậy bài vị và ngai của Thành hoàng được gửi thờ nhờ ở nhà thờ Đại tông họ Nguyễn. Đến năm 1995, dân làng quyên góp trùng tu xây dựng lại đình Kim Lũ như ngày nay.                         
Một đôi câu đối ở đình vừa nêu rõ vị trí, vừa tả cảnh Đình, lại như ngụ ý nhắc tới lịch sử xa xưa của địa phương:
“Tản Lĩnh vân cao giao vọng thần quang thiên thụ nhiễu
  Tô Giang thủy tú trường lưu danh tích bách linh triều”.
Nghĩa là:
               “Núi Tản áng mây cao, xa ngóng ánh thần, tươi tốt ngàn cây vây bọc
            Sông Tô dòng nước đẹp, mãi truyền dấu thánh, linh thiêng trăm khí chầu về”.
Hội làng Kim Lũ được tổ chức vào các ngày 8 và 9 tháng 2 âm lịch hàng năm.
2.3.2.3.3. Đình Kim Văn (Lủ Văn)
T
2.3.2.4. Đền Mẫu

2.3.2.5.Một số di tích khác
Ở làng Kim Lũ còn có 1 di tích mà nhân dân vẫn gọi là đền vua Lê, để thờ vọng vua Lê Thần Tông. Tương truyền vua Lê Thần Tông đi kinh lý, qua Kim Lũ thấy cảnh đẹp nên dừng lại mở đình. Nhân năm ấy nhà vua thọ được 55 tuổi, đã ban khăn áo cho những người ở Kim Lũ cùng tuổi thọ với vua, lại còn cho một số ruộng để làm lộc cho các cụ. Vì vậy nhân dân lập đền thờ vọng để nhớ ơn. Hàng năm cứ đến ngày 21 tháng Giêng âm lịch, nhân dân lại tổ chức lễ tạ ơn gọi nôm na là giỗ đền. Giỗ đền là nơi gặp mặt giao lưu của các cụ cao tuổi, biểu hiện của tình đoàn kết gắn bó của các cụ và nhân dân 3 làng Lủ.
Trước năm 1945, làng còn có một ngôi Văn Chỉ, nơi thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền về Nho giáo, chỉ việc tôn vinh sự học, cũng là nơi hội họp của những người đã đỗ đạt, người có phẩm hàm, có chức sắc của làng. Hàng năm, làng có tổ chức lễ tế Xuân và tế Thu nhằm khuyến khích người làng coi trọng học hành để có nhiều người đỗ đạt thành tài. Những người dự lễ tế ở đây phải là người đã vào hội Tư Văn, bao gồm những người đỗ đạt khoa bảng, các vị chức sắc của làng của xã. Thời Tây học có mở thêm đến những người đã tốt nghiệp tiểu học trở lên, những người đã mãn hạn lính… Tiếc rằng qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi Văn chỉ của làng đã bị phá hủy, Văn chỉ của làng Kim Lũ nay là nền trường Tiểu học Đại Kim. Hiện làng Kim Lũ còn lưu giữ một tấm bia “Văn từ bia ký” nêu truyền thống hiếu học được lưu lại tại đình làng Kim Lũ.
Trong làng Kim Lũ còn có nhiều ngôi đền thờ, nhà thờ họ thờ các danh nhân hoặc tổ họ như đền thờ danh nhân Tướng công Nguyễn Công Thái, nhà thờ Thủy tổ họ Nguyễn của danh nhân Nguyễn Văn Siêu, nhà thờ danh nhân tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp, nhà thờ họ Hồng (Cung).
Kim Lũ hiện có một số lăng mộ lớn đáng chú ý như:
Lăng mộ danh nhân Tướng công Nguyễn Công Thái tại xứ đồng Mả Cao, ranh giới giữa 3 phường xã Đại Kim – Thanh Liệt và Tân Triều.
Lăng mộ danh nhân văn hóa Nguyễn Văn Siêu tại địa bàn làng Kim Lũ, hướng nhìn ra sông Tô Lịch.
Lăng mộ danh nhân Nguyễn Trọng Hợp tọa lạc tại cuối thôn Kim Văn, hướng ra sông Tô Lịch.
Đây là những lăng mộ của những danh nhân nổi tiếng một thời, các lăng mộ này cũng đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa.
2.3.3. Lễ hội
Như bao làng quê khác, 3 làng Lủ hàng năm tổ chức ngày hội làng vào mùa xuân. Làng Lủ Trung và Lủ Văn tổ chức hội làng vào ngày mồng 8, mồng 9 tháng 2 âm lịch, làng Lủ Cầu tổ chức vào ngày 12 tháng 2; riêng Lủ Cầu còn có hội Mẫu vào ngày mồng 3 tháng 3.
N
2.3.4. Phong tục tập quán
2.3.4.1. Phong tục tập quán theo vòng đời
            2.3.4.1.1. Tục vào làng:

                   2.3.4.1.2. Tục cưới xin
           2.3.4.1.3.Tục lên lão
                   2.3.4.1.4. Tục tang ma
Phong tục về tang tế ở Kim Lũ xưa thực hiện đầy đủ theo Thọ Mai Gia Lễ. Người chịu tang phân theo hai cấp là Đại tang và Tiểu cớ. Đại tang để chở tứ thân phụ mẫu hoặc vợ để chở chồng. Tiểu cớ là để tang ông bà, chú, bác, cô, dì, anh chị em ruột, chồng để chở vợ. Đại tang phải chở trong ba năm, Tiểu cớ phải chở trong một  năm. Ngoài ra còn có trường hợp phải chở tang Bách nhật (100 ngày) cũng nằm trong diện Tiểu cớ. Trong thời gian chịu tang, thân chủ không được ra chốn Đình trung, không được đến các đám hỷ, không được tổ chức cưới hỏi trong gia đình.
 2.3.4.2. Những phong tục tập quán khác
       Trong làng có tập quán “trọng xỉ” (coi trọng người già). Bất kỳ là người giàu hay nghèo, sang hay hèn, người già bao giờ cũng được kính trọng, đặc biệt ở nơi công cộng đình đám. Quan niệm sống “trọng xỉ hơn trọng tước” là truyền thống quý giá của nhân dân Kim Lũ. Nhiều vị quan tước, khoa bảng khi về làng, tuy được dân làng tôn vinh ái mộ nhưng các vị vẫn giữ mực tôn trọng các bậc cao niên trong làng xã. Các vị này đều không tham gia chính quyền, giữ thái độ hòa nhã, tôn trọng người làng, sống cuộc sống bình dân. Cỗ bàn ở đình, đền chỉ có các cụ thượng lão được phần biếu mang đến tận nhà, còn lý hào chức sắc phải tự chia lấy phần như dân đinh. Những công việc ma chay, cưới xin, mừng thọ của dân làng, nếu có mời làng cũng chỉ mời đến các cụ bô lão, cỗ nhỏ thì mời các cụ trong làng, cỗ to thì mời các cụ hàng xã (ba làng). Trai làng cùng tuổi khi ăn uống ở đình trung phải chia ngôi thứ theo cha, người nào có cha hơn tuổi thì được ngồi đầu bàn hoặc chuyển lên bàn trên [9, tr.338].
 Nhân dân Kim Lũ xưa nay vẫn duy trì những ngày Tết dân tộc. Ngoài Tết Nguyên Đán còn có ngày lễ khai hạ mồng 7 tháng Giêng, Tết Thanh Minh mồng 3 tháng 3 (còn gọi là Tết bánh Trôi, bánh Chay); Tết Đoan Ngọ mồng 5 tháng 5 (còn gọi là Tết giết sâu bọ), Tết Trung Nguyên vào ngày rằm tháng 7 (còn gọi là Tết xá tộ vong nhân), Tết Cơm mới mồng 10 tháng 10. Những ngày tuần tiết này, phần lớn các gia đình đều làm lễ cúng gia tiên, cỗ chay hay mặn tùy theo gia cảnh.
Kim Lũ còn có ngày giỗ vua Lê, diễn ra hàng năm vào ngày 21 tháng Giêng âm lịch, nhân dân lại tổ chức lễ tạ ơn vua Lê. Lễ này bắt đầu từ chuyện vua Lê Thần Tông đi kinh lý, qua Kim Lũ thấy cảnh đẹp nên dừng lại mở đình. Nhân năm ấy nhà vua thọ được 55 tuổi, đã ban khăn áo cho những người ở Kim Lũ cùng tuổi thọ với vua, lại còn cho một số ruộng để làm lộc cho các cụ. Giỗ vua Lê là dịp gặp mặt giao lưu của các cụ cao tuổi, biểu hiện của tình đoàn kết gắn bó của các cụ và nhân dân 3 làng Lủ.
Nhân dân cả 3 làng Lủ đều không theo một tôn giáo nào, chỉ có tục lệ thờ cúng gia tiên, các cụ bà thi thoảng đi lễ chùa vào các ngày tuần tiết, dân làng tổ chức lễ Thánh vào những ngày hội làng, sóc vọng, từ xưa đến nay vẫn duy trì.
Do có nhiều truyền thống và phong tục tập quán hay, làng Kim Lũ đã được vua Khải Định phong tặng bốn chữ "Mỹ Tục Khả Gia”.
Tiểu kết
Kim Lũ là một làng Việt cổ truyền có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời. Dân làng lấy nông nghiệp làm nghề chính nhưng do gần kinh thành nên làng rất phát triển các nghề phụ, đặc biệt là các nghề quà bánh phục vụ cho dân Kinh kỳ như kẹo, bỏng, chè Lam, bánh đa khoai… Từ lâu quà bánh làng Lủ đã tràn ngập khắp 36 phố phường. Cũng nhờ nghề phụ và thương nghiệp phát triển mà mặc dù ruộng đất không thật màu mỡ nhưng dân làng vẫn có đời sống kinh tế khá hơn nhiều làng quê xung quanh khác. Ruộng đất trong làng chủ yếu là sở hữu tư, phân chia tương đối đều giữa 3 thôn Cầu, Trung, Văn. Diện tích thổ trạch viên trì tương đối rộng nhưng phần đất có người ở chỉ khoảng 1/3 chứng tỏ trong làng còn có nhiều khu đất trống và ao hồ.
Không chỉ giỏi nghề, khéo buôn bán, Kim Lũ còn là vùng đất hiếu học, có truyền thống khoa bảng lâu đời. Cả làng có 5 người đỗ đại khoa, nhiều người đỗ tiểu khoa và trung khoa, ngoài ra nhiều người không tham gia thi cử nhưng lại nổi tiếng với tài văn chương thi phú. Nhờ thế mà cổng làng Kim Lũ được viết 2 chữ “Quan miện”, nghĩa là mũ quan. Những người đỗ đạt trong làng được ra làm quan, đều làm đến chức quan cao, sau lại về làng sống cuộc đời thanh bạch. Họ chính là những tấm gương để con cháu làng Lủ noi theo tiếp bước, làm rạng danh làng Lủ. Truyền thống hiếu học của làng đã được nêu trong tấm bia “văn từ bia ký” mà đến nay làng vẫn còn lưu giữ được.
Làng Lủ là một làng quê điển hình với các công trình kiên trúc tôn giáo tín ngưỡng như các làng quê khác cồng làng, đình, chùa, đền mẫu, ngoài ra còn có các di tích văn hóa khác như văn chỉ, điếm làng, quán làng… Hơn thế nữa, làng Kim Lũ cũng là một làng giàu phong tục tập quán truyền thống, với nhiều phong tục mang nét riêng của làng như tục khao lão năm 55 tuổi, tục “trọng xỉ hơn trọng tước”... Chính vì vậy mà vua Khải định đã phong tặng làng 4 chữ “Mỹ Tục Khả Gia”.
Kết luận










[1] Ruộng công
[2] Ruộng tư
[3] ruộng của các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng
[4] đất công
[5] đất ở vườn ao
[6] các gò, đống
[7] Do lệ chia ruộng cho những người đỗ đạt, triều đình tặng ruộng cho các vị quan về quê khi tuổi cao sức yếu hoặc có thể là ruộng họ






[1] Theo các cụ trong làng là do phong thủy kém, trống trải, hay bị trộm cắp, đất đai lại khô cằn, giao thông không thuận lợi.
[2] Trấn Sơn Nam: Nay là các tỉnh các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình và một phần các tỉnh Hưng Yên, Hà Nội (5 huyện phía nam: Thanh Trì, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín và Phú Xuyên).

[3] Chữ Cung và chữ Hồng chỉ khác nhau ở bộ Nhân của chữ Cung, và bộ Khẩu ở chữ Hồng.
[4] Hồng Hạo làm quan trải các chức Hàn Lâm viện Hiệu thảo, Giám sát Ngự sử, Tham chính sứ Kinh Bắc, Đông các Đại học sĩ, Đại lý tự khanh, Thừa chính sứ Nghệ An.
[5] Ông làm quan trải qua các chức: Tri huyện Ý Yên, Tự Thừa, Hình khoa Cấp sự trung, Tuyên Quang Hiến sát Phó sứ.
[6] Ông giũ chức Tư vụ.
[7] “Thanh trì tứ hổ” là 4 người giỏi văn chương nổi tiếng của huyện Thanh Trì; (3 con hổ còn lại là Đặng Trần Côn ở thôn Hạ Đinh, Nguyễn Hiên ở làng Tương Mai, Trương Đẩu ở làng Nhân Mục).
[8] Ông làm quan trải qua các chức: Tự Thừa, Hàn lâm viện Thị chế, Binh bộ, Lại bộ Viên ngoại lang
[9] Ông đỗ khoa thi năm Ất Mùi 1715, đời Lê Dụ Tông; đến năm Mậu Thân 1728, lại đỗ khoa Đông Các.
[10] Ông đỗ khoa Mậu Tuất 1838, đời Minh Mạng.
[11] Ông còn có tên là Tuyên, hiệu là Kim Giang và Quế Bình, đỗ khoa thi Ất Sửu (1865), đời Tự Đức.
[12] Ông còn có tên là Sĩ Giác, sinh năm 1888, cháu nội của Tiến sỹ Nguyễn Trọng Hợp, đỗ khoa Canh Tuất 1910.